Sách giáo khoa in tràn lan, ai được lợi?
“Các nước tiên tiến trên thế giới thì có chuẩn chung về sách giáo khoa cho bậc phổ thông, còn ở ta năm nào cũng in lại, gây ra lãng phí, cho tới nay đã làm hao tổn nhiều tỷ đồng của nhân dân. Để ngăn chặn sự lãng phí ghê gớm này, Quốc hội cần đưa ra một chế tài: SGK được in ra, phải được dùng ít nhất một vòng là 12 năm hay lâu hơn mới được in lại một lần, nhiều quốc gia đã áp dụng cách làm này”, GS Nguyễn Xuân Hãn nói.
LTS: Thời gian gần đây các nhà giáo dục tiếp tục luận bàn về việc đổi mới sách giáo khoa (SGK), mà vấn đề nằm ở cả hai vế đó là kiến thức trong những cuốn sách và sự lãng phí tiền khủng khiếp. Trước thực trạng này, một trong những nhà khoa học – nhà giáo luôn tâm huyết với sự nghiệp đào tạo là GS.TSKH Nguyễn Xuân Hãn – ĐH Quốc Gia Hà Nội cho hay, chỉ cần 100 tỷ đồng là đủ để hoàn thành toàn bộ chương trình sách chuẩn từ tiểu học cho tới hết đại học.
- Là một chuyên gia có tới 20 năm nghiên cứu về chương trình-SGK, ông có biết việc in SGK tràn làn trong nhiều năm qua thì ai là người được hưởng lợi nhiều nhất?
GS Nguyễn Xuân Hãn: Nhóm lợi ích, NXB Giáo dục chỉ là cái ô che chung của họ! Vào ngày 7/9/2012, tại Hội thảo do Báo Nhân dân tổ chức sau khi tôi phát biểu, ông Ngô Trần Ái – Giám đốc NXB Giáo dục có nói “Giá cuốn sách của chúng tôi còn rẻ hơn giá một mớ rau”. Tôi trả lời: “Ước tính của tôi về doanh thu của NXB Giáo dục cỡ 100 triệu USD/năm là con số khiêm tốn. Tại sao vậy? Vì doanh số của ngành in ấn cả nước chừng 1 tỷ USD/năm, trong khi NXB Giáo dục chiếm 80% lượng in ấn. Thí dụ, cuốn SGK môn tiếng Việt xin mọi người hãy kiểm tra, kể từ năm 2002 năm nào NXB GD cũng thu của dân 2 triệu USD cho việc bán sách môn học này. Toàn quốc có 55 NXB, 6200 doanh nghiệp, cơ sở in ấn với doanh thu khoảng 1 tỷ USD/năm, tốc độ tăng doanh thu trung bình là 100-150 triệu USD/năm. Riêng giấy in sách giáo dục cần khoảng 2 triệu tấn/năm, trong nước chỉ cung cấp được 40% còn lại 60% phải nhập ngoại.
Trước đó vào năm 2000, tại cuộc họp hội đồng quốc gia giáo dục do Thủ tướng Phan Văn Khải chủ trì, tôi đã nói “Hàng năm, Chính phủ lo giấy in sách giáo dục, nếu không lo được giấy, người dân nói Thủ tướng chưa quan tâm đến giáo dục, nhưng chuẩn bị được giấy in SGK, kính thưa Thủ tướng, mỗi bộ SGK ở bậc phổ thông, người dân phải ban đi một tạ thóc để mua bộ SGK này/1 em/1 lớp”.
- Nhưng thưa Giáo sư, người ta có thể lý giải rằng khoa học công nghệ hiện nay phát triển như vũ bão, và như vậy thì năm sau phải in lại để cập nhật cái mới so với năm trước?
GS Nguyễn Xuân Hãn: Viện dẫn cho việc làm nay người đưa ra lý do “kiến thức khoa học của nhân loại chỉ cần khoảng thời gian 7 năm để tăng gấp đôi và thời gian ấy ngày càng thu ngắn” làm căn cứ đổi mới chương trình và thay SGK ở bậc phổ thông, là không đủ sức thuyết phục!
Vậy bất biến trong cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật diễn ra ở thế kỷ XX, là gì? Chính là hai lý thuyết vật lý lượng tử và tương đối ra đời và được đưa vào nhà trường gần 100 năm nay. Bản chất của 4 chữ lượng tử và tương đối, có thể trình bày rõ ràng trong một cuốn sách nhỏ 50 trang, để HS phổ thông có thể hiểu đuợc. Các kiến thức này vào cuộc sống, nhiều công nghệ mới ra đời, phong phú và đa dạng, có trong hàng triệu trang sách Xin ví dụ, vật lý bán dẫn là sản phẩm của thuyết lượng tử và công nghệ. Không có vật lý bán dẫn, sẽ không có máy tính ngày nay, và càng không thể nói tới kinh tế tri thức, và toàn cầu hoá. Hiện tượng phân hạch hạt nhân phát hiện 1938, là cơ sở nghiên cứu nguồn năng lượng mới-năng lượng hạt nhân ngày nay, chưa bàn đến lượng dự trữ vũ khí hạt nhân, vẫn là nỗi ám ảnh thường trực nhân loại gần 70 năm qua. Lấy bất biến ứng vạn biến là lẽ thường. Bất biến ở đây được diễn đạt trong 50 trang sách, còn vạn biến được trình bày trong hàng triệu trang sách! Còn ngược lại là không thuận (là nghịch). Thực tiễn cho thấy, tư duy ngược, giáo dục sẽ bị xáo trộn.
GS Nguyễn Xuân Hãn: “Để ngăn chặn sự lãng phí ghê gớm này, Quốc hội cần đưa ra một chế tài: SGK được in ra, phải được dùng ít nhất một vòng là 12 năm hay lâu hơn mới được in lại một lần”.
- Điều chắc chắn là chúng ta cần phải có một Tổng tư lệnh cho công việc mang tính quyết định tới vận mệnh của đất nước, bởi một hệ thống SGK chuẩn là vô cùng quan trọng, nó được coi là nền tảng tạo nên sự thành công của một dân tộc… nhưng vấn đề lúc này là phải tìm ra được Tổng tư lệnh, thưa Giáo sư?
GS Nguyễn Xuân Hãn: Theo Điều 36 của Hiến pháp, điều 100 của Luật Giáo dục năm 2005 thì người chịu trách nhiệm về chương trình SGK chuẩn trước Quốc hội và nhân dân là Thủ tướng. Với quyền hạn và trách nhiệm của mình Thủ tướng có thể giao cho Bộ trưởng Bộ GD-ĐT lo liệu việc này, hoặc Thủ tướng cũng có thể giao cho một hội đồng khoa học của các nhà giáo trực thuộc Chính phủ lo liệu, sau khi hoàn thành nhiệm vụ thì giải tán. Giải pháp này cũng đã được Bà Nguyễn Thị Bình – Phó Chủ tịch nước đề xuất trên diễn đàn Quốc hội “Phải giải phóng Bộ GD-ĐT khỏi nhiệm vụ xây dựng và biên soạn CT-SGK chuẩn ở bậc phổ thông”.
Các nước tiên tiến trên thế giới thì có chuẩn chung về sách giáo khoa cho bậc phổ thông, còn ở ta năm nào cũng in lại, gây ra lãng phí, cho tới nay đã làm hao tổn nhiều tỷ đồng của nhân dân. Để ngăn chặn sự lãng phí ghê gớm này, Quốc hội cần đưa ra một chế tài: SGK được in ra, phải được dùng ít nhất một vòng là 12 năm hay lâu hơn mới được in lại một lần, nhiều quốc gia đã áp dụng cách làm này.
- Thưa Giáo sư, lâu nay chúng ta cứ luẩn quẩn với vô vàn những ý kiến tranh luận, nhưng cuối cùng cũng chưa định hình được một cách chính xác là chúng ta sẽ làm theo hướng nào, nếu ví von thì có nghĩa là chúng ta chưa xác định được cái móng của một ngôi nhà nhưng lại cứ tính đến chuyện xây tầng. Và như vậy mọi chuyện càng trở nên rối rắm…?
GS Nguyễn Xuân Hãn: Nghiên cứu giáo dục của gần 200 nước trên thế giới nhiều người thống nhất nhận định rằng, hơn hai thế kỷ các nền giáo dục được thừa nhận là tiêu biểu cho nhân loại bao gồm Anh, Đức, Nga, Mỹ và Pháp là những cường quốc lớn về khoa học kỹ thuật, có vai trò to lớn trong lịch sử thế giới cận đại và hiện đại. Nền giáo dục của 5 nước kể trên là những nền giáo dục gốc, còn các nền giáo dục khác là phiên bản mà thôi, ngay cả những nước trước đây đã từng có lịch sử giáo dục huy hoàng như Trung Quốc, Ấn Độ, Ả rập hồi giáo cũng từ lâu đã phải chuyển sang học tập các nền giáo dục kể trên.
Trong 5 nước này thì chỉ có Pháp phân ban ở PTTH, 4 nước còn lại không thực phân ban. Một thời gian Việt Nam là một thuộc địa của Pháp, sau khi giành độc lập, theo tư tưởng của Bác Hồ, vào năm 1950 ta bỏ phân ban mà Pháp để khẳng định giáo dục nước ta là giáo dục toàn diện. Tuy nhiên, đến năm 1993 thì chế độ phân ban thời thuộc Pháp lại được khôi phục, chia thành ba ban A (tự nhiên), ban B (khoa học tự nhiên – kỹ thuật), ban C ( xã hội). Năm 1998, chế độ phân ban bị xóa bỏ khi thông qua luật giáo dục, vì xã hội không chấp nhận. Nhưng tới năm 2002, chế độ phân ban lại một lần nữa được khôi phục, chỉ còn ban A và ban C. Và lúc này xuất hiện một thực tế là có tới 50% học sinh không vào ban nào cả, do đó tới năm 2003, Quốc hội đã cho phép dừng phân ban 2 năm để thiết kế lại phương án phân ban.
Năm 2005, Bộ Giáo dục trình phương án ba ban: A (tự nhiên), ban B (xã hội) và ban C (cơ bản). Tuy nhiên, trên thực tế xuất hiện tới 5 ban, đó là: Tự nhiên A, Xã hội C và CB, CB hướng A, CB hướng C. Đến nay đã gần 20 năm xã hội không chấp nhận bất cứ phương án phân ban mà Bộ Giáo dục đưa ra.
Video đang HOT
- Nói như vậy có nghĩa là chúng ta đi ngược xu thế so với các nước tiên tiến, thưa Giáo sư?
GS Nguyễn Xuân Hãn: Rõ ràng là chúng ta đã đi ngược xu thế của những nước tiên tiến nhất. Câu hỏi phải đặt ra là: Ai chịu trách nhiệm về việc khôi phục phân ban này? Khi xây dựng một nền giáo dục không theo tư tưởng nhất quán thì ắt hẳn không ra được chương trình SGK chuẩn. Theo cách nói của GS Nguyễn Cảnh Toàn, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục, nguyên Phó Chủ tịch Hội Toán học Việt Nam thì 20 năm qua (1993 – 2012) chúng ta đã mang học sinh ra làm “chuột bạch” để thí nghiệm các loại chương trình, SGK.
- Thưa Giáo sư, vừa mới đây thôi, các chuyên gia giáo dục lại tranh luận về chuyện có nên sử dụng nhiều bộ sách giáo khoa khác nhau để phù hợp với trình độ học sinh ở các tỉnh miền núi và miền xuôi; rồi thì Bộ Giáo dục cũng đã lập ra Ban chỉ đạo đổi mới sách giáo khoa 2015 nhằm tìm ra các “lỗ hổng” để “vá” lại. Giáo sư có ủng hộ việc làm nhiều bộ SGK khác nhau?
GS Nguyễn Xuân Hãn: Một chương trình, trên thế giới chỉ có thể có vài cách biên soạn SGK khác nhau chứ không phải là vô hạn. Bộ SGK chuẩn phổ thông phải thoả mãn các tiêu chí: phổ thông về kiến thức, ngôn ngữ và cách trình bày. Cuối những năm 1980, một chương trình ta đã biên soạn 3 bộ SGK toán, 2 bộ SGK Văn, rồi cuối những năm 1990 của thế kỷ trước và đầu những năm 2000, ta lại hợp nhất làm 1 bộ Toán, Văn. Năm 2002 ta lại chỉ đạo một chương trình viết 2 bộ SGK cho các môn Toán, Lý, Hóa, Sinh và Ngữ văn (Văn và Tiếng Việt). Đến 2005 ta có tới 5 ban thì việc biên soạn còn hỗn loạn hơn.
Có ý kiến cho rằng nhiều nhóm cạnh tranh lành mạnh viết SGK, như kiểu “toàn dân đúc thép”, thì thực tế ta chỉ nhận được gang! Vì sao? Đây là vấn đề khoa học! Một chương trình có vài kiểu viết SGK khác nhau, song xin khẳng định nội dung các bộ SGK không phải tương đương nhau về ngôn ngữ và cách trình bày. Bộ SGK nào mà phần trình bày nội dung khoa học, dễ hiểu nhất, ngôn ngữ phổ thông nhất, được chọn là chuẩn; các bộ SGK khác còn lại được chọn làm sách tham khảo. Nhầm lẫn khác ở chỗ hai người khác nhau không phải lúc nào cũng viết được hai bộ SGK khác nhau nếu không có tư tưởng, học thuật khác nhau. Nhiều tác giả trong thời gian qua đã bức xúc cảnh báo: Nếu cứ phải “quay lưng vào nhau” để biên soạn các bộ SGK khác nhau khi chưa nhận thức rõ đâu là chuẩn mực về mặt học thuật thì sự rắc rối cho việc dạy và học là khó tránh khỏi, cứ thế này thì là một mối lo.
- Giáo sư khẳng định chỉ cần 100 tỷ đồng là làm xong toàn bộ chương trình chuẩn SGK?
GS Nguyễn Xuân Hãn: Người xưa đã nói “Con hơn cha là nhà có phúc”. Thế hệ trí thức cách mạng không có đồng tiền nào đâu, mà vẫn làm được CT-SGK theo chuẩn mực quốc tế và phù hợp với Việt Nam. Thế hệ chúng tôi đã được nhà nước đào tạo bài bản và hệ thống ở các nước tiên tiến, mà không kế tục được sự nghiệp của cha anh mình đã làm. thì đất nước sẽ khó mà phát triển.
Trân trọng cảm ơn Giáo sư!
Theo PV (Giáo dục Việt Nam)
Việt Nam tụt hậu 50 năm so với Thái Lan về công bố khoa học
Dân số đông, nhiều tiến sĩ nhưng số ấn phẩm khoa học Việt Nam công cố trên thế giới còn rất thấp so với các nước khu vực. Việt Nam phải hơn nửa thế kỷ nữa để đuổi kịp năng suất hiện tại của Thái Lan.
Tiến sĩ Bùi Du Dương. Ảnh do nhân vật cung cấp
Tiến sĩ Bùi Du Dương, học giả ở Trường Đại học Quốc gia Singapore phân tích về thực trạng khoa học Việt Nam so với các nước khu vực và bài học từ các nước Đông Á với sự phát triển vượt bậc về công bố quốc tế trong những năm qua.
Cùng với xu thế hội nhập, số lượng và chất lượng ấn phẩm khoa học quốc tế trở thành thước đo quan trọng, chỉ số khách quan phản ánh sự phát triển khoa học công nghệ cũng như hiệu suất khoa học của mỗi quốc gia. Với bản thân nhà khoa học, các công bố quốc tế không chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân như cung cấp các chứng từ ghi nhận thành quả nghiên cứu, tạo dựng cơ hội hợp tác chuyên môn, thúc đẩy hội nhập quốc tế mà còn là nghĩa vụ cần chia sẻ, đóng góp vào tri thức nhân loại, nâng cao sự hiện diện của khoa học nước nhà. Công bố khoa học quốc tế thường được hiểu là các bài báo được công bố trên các tạp chí khoa học, sách và các phát minh sáng chế được quốc tế công nhận.
Khoa học Việt Nam đang ở đâu?
Có nhiều phân tích trong nước và quốc tế cho thấy số lượng ấn phẩm khoa học Việt Nam còn rất khiêm tốn, khiến cho những ai quan tâm đến cảm thấy lo lắng. Thực trạng thấp kém không chỉ so với các nước tiên tiến trên thế giới có nền tảng khoa học phát triển lâu năm mà ngay cả khi so với các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Theo thống kê Viện thông tin khoa học (ISI), trong 15 năm qua (1996-2011), Việt Nam mới có 13.172 ấn phẩm khoa học công bố trên các tập san quốc tế có bình duyệt, bằng khoảng 1/5 của Thái Lan (69.637), 1/6 của Malaysia (75.530) và 1/10 của Singapore (126.881). Trong khi đó, dân số Việt Nam gấp 17 lần Singapore, 3 lần Malaysia và gần gấp rưỡi Thái lan.
Việt Nam hiện nay có khoảng 9.000 giáo sư và phó giáo sư, 24.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ mà số ấn phẩm khoa học của cả nước trong vòng 15 năm qua chưa bằng 1/5 số công bố của Trường ĐH Tokyo (69.806 ấn phẩm) và một nửa của Trường ĐH Quốc gia Singapore (28.070 ấn phẩm).
Đồ thị dưới đây của giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, Đại học New South Wales, Úc mô tả số lượng và năng suất công bố khoa học của Việt Nam so với các nước trong vùng cho thấy với tốc độ hiện tại, chúng ta cần đến hơn nửa thế kỷ nữa để đuổi kịp năng suất hiện tại của Thái Lan, Malaysia chứ chưa nói gì đến Singapore hay các nước tiên tiến khác trên thế giới.
Sự hiện diện của khoa họcViệt Nam trên trường quốc tế còn khiêm tốn.
Không chỉ khiêm tốn về số lượng, chỉ số ảnh hưởng của các công trình nghiên cứu khoa học của Việt Nam cũng thấp nhất so với những nước trong khu vực vừa được đề cập. Thứ hạng khiêm tốn này cũng nhất quán với số bằng sáng chế được đăng ký ở Mỹ và chỉ số sáng tạo do Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới WIPO xếp hạng.
Thật ra, nước ta có nhiều công trình nghiên cứu xứng đáng chia sẻ với cộng đồng khoa học thế giới nhưng rất tiếc, cho đến nay các công trình đó vẫn loanh quanh trong các báo cáo nghiệm thu, đóng gói không chia sẻ, hoặc công bố trên những tạp chí trong nước chưa được quốc tế công nhận và hệ quả là làm thiệt thòi cho khoa học nước nhà.
Nhiều phân tích nêu ra những nguyên nhân chủ yếu cho tình trạng trên như phân phối ngân sách cho nghiên cứu chưa thỏa đáng, rào cản về ngôn ngữ tiếng Anh, nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng của công bố quốc tế, thiếu kinh nghiệm và chưa có thói quen (văn hóa) công bố, thiếu chính sách đãi ngộ, khuyến khích nhà khoa học công bố quốc tế, rất ít những tập san khoa học trong nước bằng tiếng Anh, chưa xác lập những chuẩn mực đánh giá hiệu quả khoa học phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế ở đó công bố quốc tế được sử dụng làm thước đo khách quan. Tuy nhiên, đến nay gần như vẫn chưa có giải pháp nào đáng kể để cải thiện tình hình.
Bài học từ các nước Đông Á
Bản đồ thế giới về ấn phẩm khoa học quốc tế đang thay đổi nhanh chóng trong vài thập kỷ gần đây với sự hiện diện của các "cường quốc mới" càng ngày càng gia tăng, đặc biệt là các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực Đông Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan.
Số liệu thống kê mới nhất của SCImago tiến hành xếp hạng cho 147 nước và vùng lãnh thổ có công bố khoa học cho thấy Trung Quốc đã vươn lên hàng thứ hai trên thế giới về số ấn phẩm khoa học trên các tập san quốc tế chỉ sau Mỹ, vượt qua rất nhiều nước có lịch sử khoa học phát triển lâu năm như Đức, Nhật, Anh, Pháp, Canada.
Theo phân tích từ số liệu ISI, trong vòng 15 năm gần đây, số lượng ấn phẩm khoa học mà các nhà khoa học Trung Quốc công bố hàng năm tăng gần 14 lần, từ 27.549 (hạng 9/147) năm 1996 đến 373.756 bài (hạng 2/147) năm 2011. Viện Hàn lâm Hoàng gia Anh (Royal Society) dự báo trong vòng hai năm tới số công bố khoa học của Trung Quốc có thể vượt qua Mỹ.
Các nước và vùng lãnh thổ ở Đông Á khác như Hàn Quốc, Đài Loan cũng có bước tiến rất ấn tượng. Nếu năm 1996 chỉ có Nhật Bản và Trung Quốc lọt vào top 15 của thế giới về số ấn phẩm khoa học thì năm 2011 đã có cả Hàn Quốc và Đài Loan lọt vào danh sách này.
Bằng cách nào mà họ có những bước tiến ngoạn mục như thế?
Đầu tư thỏa đáng: Các nước và lãnh thổ trên đều coi giáo dục, khoa học công nghệ là bộ phận không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh tế, hiện đại hóa quốc gia họ. Ví dụ, từ những năm 90, Trung Quốc đầu tư khoản tiền khổng lồ (so với GDP của Trung Quốc vào thời điểm đó) hàng chục tỉ USD cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học, và nghiên cứu khoa học với các chương trình trọng điểm quốc gia như dự án 211 (1995), dự án 985 (1998), dự án 111 (2005).
Ngoài Trung Quốc, các quốc gia khác cũng nỗ lực đầu tư khoản khổng lồ không kém nhằm cải thiện số lượng và chất lượng công bố khoa học quốc tế mà điển hình là chương trình trọng điểm quốc gia "Brain Korea 21 (BK21)", Hàn Quốc hay chương trình "Xây dựng trường đại học và trung tâm nghiên cứu đẳng cấp quốc tế" của Đài Loan.
Quốc tế hóa nhân sự khoa học: Các nước hiểu rõ con người là nhân tố quyết định cho thành công. Một mặt họ đầu tư tài chính để lôi cuốn được những giáo sư quốc tế đến công tác hoặc hợp tác với khoa học trong nước, một mặt họ có chủ trương thu hút những trí thức trong nước đã được đào tạo từ các nước phương Tây về nước nghiên cứu và giảng dạy.
Hàn Quốc xây dựng các cơ sở hợp tác chiến lược với các đại học nước ngoài (đặc biệt là Mỹ) và thuê các nhà khoa học, quản lý hàng đầu thế giới đến làm việc. Năm 2008, Hàn Quốc đưa ra "chương trình các đại học đẳng cấp thế giới" nhằm "nhập khẩu" các giáo sư nước ngoài đến giảng dạy và nghiên cứu, giúp sức "để chuyển đổi các trường đại học Hàn Quốc thành những viện nghiên cứu đẳng cấp thế giới".
Tính đến năm 2009, Hàn Quốc đã thu hút được hàng trăm giáo sư nước ngoài hàng đầu đến làm việc ở Hàn Quốc, trong đó có 9 nhà khoa học đã từng đạt giải Nobel. Đồng thời, Hàn Quốc khuyến khích gửi các nhà khoa học và sinh viên trong nước sang học tập ở nước phương Tây. Theo báo cáo năm 2008 của Viện giáo dục Fulbright (Hoa kỳ), trung bình cứ 7 sinh viên quốc tế ở Mỹ thì lại có 1 sinh viên Hàn Quốc.
Không chỉ đầu tư thu hút giảng viên và nhà nghiên cứu, các nước cũng nỗ lực thu hút sinh viên nước ngoài, đặc biệt là sinh viên sau đại học thông qua nhiều chương trình trao đổi sinh viên, liên kết đào tạo, chương trình hợp tác nghiên cứu, cung cấp học bổng.
Quốc tế hóa tiêu chuẩn đánh giá khoa học: Ở các nước Đông Á, chức danh khoa bảng như giáo sư, phó giáo sư, giảng viên đều được đề bạt và đánh giá dựa vào số lượng công trình khoa học quốc tế công nhận thay vì các tiêu chí khác như thâm niên công tác, nền tảng gia đình hay mối quan hệ cá nhân. Hơn nữa, các cơ quan quản lý và nhà tài trợ đều hướng đến việc sử dụng công bố khoa học quốc tế là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá xem xét việc cấp tài trợ hay nghiệm thu các đề tài nghiên cứu.
Các nước chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học, đặc biệt là năng lực sáng tạo và đổi mới của nghiên cứu sinh tiến sĩ. Nghiên cứu sinh tiến sĩ thường được yêu cầu có bài đăng trên tạp chí quốc tế trước khi có thể bảo vệ luận án. Các học viên cao học cũng khuyến khích công bố trên các tạp chí và các hội nghị khoa học quốc tế trước khi bảo vệ luận văn.
Hàng năm, các nước tiến hành tiến hành xếp hạng các trường ĐH theo tiêu chuẩn quốc tế như THE, ARWU ở đó số lượng công bố khoa học quốc tế là một trong những tiêu chí quan trọng của bảng xếp hạng.
Quốc tế hoá tập san khoa học: Các nước chú trọng xây dựng ngày càng nhiều các tập san khoa học trong nước bằng tiếng Anh với hệ thống bình duyệt theo tiêu chuẩn quốc tế mà vào hệ thống ISI công nhận. Các bài báo khi đăng ở các tạp chí được ISI công nhận sẽ được tính trong hệ thống khi xếp hạng quốc tế. Ở đây, ta chưa nói đến vấn đề chất lượng mà chỉ bàn đến vấn đề thay đổi ngôn ngữ xuất bản và quy trình bình duyệt của các tập san sao cho phù hợp với chuẩn của các tập san quốc tế.
Cải thiện cơ cấu tổ chức: Không chỉ đầu tư mạnh về tài chính, với các nước có cơ cấu tổ chức khoa học chưa phù hợp với xu hướng thế giới như Trung Quốc đã tiến hành những cải tổ quan trọng. Họ thực hiện tái cấu trúc các trường đại học, xây dựng trường đại học tổng hợp, thiên hướng nghiên cứu thay vì các mô hình trường đại học chuyên ngành chủ yếu giảng dạy của Xô Viết cũ.
Nhà nước Trung ương cũng chủ trương xây dựng các phòng nghiên cứu trọng điểm quốc gia và đặt tại các trường đại học theo mô hình các trường đại học nghiên cứu ở Hoa Kỳ thay vì duy trì các viện nghiên cứu độc lập nằm ngoài trường đại học mà Trung Quốc áp dụng trong những năm 50.
Các nước khuyến khích tăng dần tỉ lệ của học viên sau đại học so với sinh viên đại học ở các cơ sở đào tạo, từ đó cho phép xây dựng những nhóm nghiên cứu chuyên ngành với thành viên đông đảo là các sinh viên thạc sĩ và tiến sĩ làm việc ở các phòng nghiên cứu.
Chính sách khen thưởng thỏa đáng: Các nước đều có chính sách đãi ngộ, thưởng cũng như hình thức khuyến khích tài chính cho các nhà khoa học có công trình công bố trên các tập san quốc tế uy tín cao. Ví dụ, các viện nghiên cứu và đại học ở Trung Quốc có chính sách thưởng tiền đáng kể (lên tới 32.000 USD ở Trường Đại học Y Quảng Đông cho công bố đăng trên Nature hay Science) cho các nhà khoa học nếu họ công bố công trình trên các tập san quốc tế uy tín có chỉ số ảnh hưởng cao.
Các quốc gia Đông Á đã thành công, không có lý do gì chúng ta không áp dụng những biện pháp trên để nâng cao sự hiện diện của khoa học Việt Nam trên trường quốc tế.
Theo Dương Bùi (VNExpress)
Trình độ tiếng Anh của sinh viên còn ở mức trung bình, kém Theo ghi nhận tại hội thảo dạy tiếng Anh đạt chuẩn đầu ra cho sinh viên ĐH Đà Nẵng, qua khảo sát các trường thành viên ĐH Đà Nẵng cho thấy trình độ tiếng Anh của phần lớn sinh viên hiện còn ở mức trung bình và kém. Hội thảo "Chương trình dạy tiếng Anh đạt chuẩn đầu ra cho SV các trường...