Sách Công nghệ giáo dục của GS Hồ Ngọc Đại bị loại: “Thẩm định SGK vẫn trên văn bản, trong phòng họp”
“Tôi không hiểu sao bộ sách được hơn 48 tỉnh thành, hơn 900.000 học sinh sử dụng, độ phủ sóng như vậy, mà Bộ vẫn đ.ánh giá không đạt”?
Tiếng Việt, Toán lớp 1, lớp 2 là những cuốn tài liệu quan trọng nhất của Bộ sách Công nghệ Giáo dục do Giáo sư Hồ Ngọc Đại làm chủ biên vừa bị Hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa theo chương trình giáo dục phổ thông mới của Bộ GD-ĐT loại từ vòng 1.
Thông tin này đã thu hút sự quan tâm của dư luận, bởi sách Công nghệ giáo dục đã được triển khai dạy học trong nhà trường suốt 40 năm qua với khoảng hơn 900.000 học sinh theo học.
PGS.TS Nguyễn Kế Hào cho rằng cần xem lại việc đ.ánh giá sách giáo khoa khi đ.ánh trượt bộ sách Công nghệ giáo dục của GS Hồ Ngọc Đại.
Mới đây, PGS.TS Nguyễn Kế Hào, cũng đã thay mặt tập thể cán bộ Trung tâm Công nghệ Giáo dục đã gửi thư kiến nghị tới Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phùng Xuân Nhạ bày tỏ ý kiến không đồng tình với đ.ánh giá của Hội đồng thẩm định sách giáo khoa. Phóng viên VOV.VN đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Nguyễn Kế Hào, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục Tiểu học, Bộ GD-ĐT về vấn đề này.
PV: Thưa ông, mới đây sách Công nghệ giáo dục của GS Hồ Ngọc Đại đã bị Hội đồng thẩm định sách giáo khoa đ.ánh trượt ngay từ vòng đầu. Vấn đề này đang nhận được nhiều ý kiến trái chiều trong dư luận, ông có đ.ánh giá gì về vấn đề này?
PGS. TS Nguyễn Kế Hào: Việc đ.ánh giá đương nhiên phải đề ra những chuẩn mực, có những người đại diện được chọn vào để đ.ánh giá. Nhưng tôi thấy công tác đ.ánh giá vẫn trong phòng họp trên văn bản, chưa có thực tế. Tôi đề nghị phải hỏi trên 900.000 học sinh, phải dự giờ bởi “trăm nghe không bằng một thấy”. Nhưng nếu đ.ánh giá dựa trên các tiêu chí, mà giữa các tiêu chí đó và thực tế cuộc sống không khớp nhau thì cần xem lại các chuẩn mực đ.ánh giá có chủ quan hay không? Thậm chí, luật đưa ra, nhưng khi áp dụng không hợp lý vẫn phải sửa.
Đây không phải thành tựu của riêng Hồ Ngọc Đại, mà là thành tựu của giáo dục Việt Nam. Năm trước, vấn đề về sách Công nghệ giáo dục cũng đưa ra dư luận, nguyên Bộ trưởng Phạm Vũ Luận cũng đã phải lên tiếng rằng: “Tôi học Bác Hồ, Bác Hồ đã dạy cái gì có lợi cho dân phải cố gắng làm bằng được. Mà cái này có lợi cho dân”.
Thời làm Bộ trưởng, ông Luận cũng rất thận trọng trước khi cho sử dụng rộng rãi sách Công nghệ giáo dục. Khi ấy, ông Phạm Vũ Luận một mình đi tàu lên Lào Cai, thuê xe ôm đến các trường học, xem thực tế học sinh học ra sao và về quyết định cho nhân rộng việc dạy Công nghệ giáo dục. Nhưng không hiểu sao đến giờ, hơn 48 tỉnh, thành sử dụng, trên 900.000 học sinh sử dụng, độ phủ sóng của bộ sách như vậy, mà Bộ vẫn đ.ánh giá không đạt. Bộ sách này cũng đã được nghiệm thu, thẩm định rất nhiều lần, nếu loại ngay từ vòng đầu, thì những hội đồng trước thẩm định trước kia làm việc thế nào?
Khi tôi còn công tác, để nghiệm thu bộ sách, hội đồng phải về tận Hải Phòng, đến các huyện miền núi như Yên Dũng, ngồi gọi từng học sinh lên để xem các em đọc, viết thế nào, nghiệm thu trong hơn 1 tháng, bao gồm cả thực tế và nghiên cứu tài liệu.
PV: Hội đồng thẩm định cho biết thành phần đ.ánh giá sách giáo khoa có cả giáo viên tiểu học, nhưng họ đều nhận định bộ sách này còn khó, thưa ông?
PGS. TS Nguyễn Kế Hào: Tôi chỉ thắc mắc những giáo viên này có trực tiếp dạy lớp 1 hay không? Việc các giáo viên phải ngồi cùng hội đồng với những người là thầy, lãnh đạo của mình, liệu việc đ.ánh giá có thực sự được công tâm? Tôi chỉ biết rằng, cuộc sống đã chứng minh, nhưng kết quả thẩm định lại đi ngược lại với thực tế thì hội đồng đ.ánh giá cần xem xét lại.
Video đang HOT
Những bộ sách còn lại, được đ.ánh giá đạt chuẩn, nhưng lại không có thực tiễn. Vấn đề là anh đề ra những chuẩn tiêu chí đ.ánh giá như thế nào?
Bộ sách Công nghệ giáo dục đã đi vào cuộc sống mấy chục năm nay, khi nào khó khăn lại đem ra dùng, còn sách mới được đ.ánh giá là tốt, nhưng lại chưa ai nhìn thấy, tất cả mới chỉ trên văn bản, phòng họp. Như vậy liệu có quá coi thường cuộc sống và người dân? Bản thân tôi cũng đã từng đi đến những vùng sâu vùng xa, “3 Tây” gồm Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, những nơi khó khăn nhất, nhưng học sinh vẫn có thể học được bộ sách này và rất thích.
Hội đồng thẩm định cho rằng những ngữ liệu về các bài thơ mang tính tuyên ngôn dân tộc như “Nam quốc sơn hà” vào sách lớp 1 là khó. Nhưng đó là cách để tinh thần dân tộc ngấm vào những đ.ứa t.rẻ khi từ nhỏ. Tại sao học sinh tiểu học đi học đã phải hát Quốc ca, chắc hẳn các em không thể hiểu hết lời bài hát, nhưng chính những giai điệu hào hùng, đầy tự hào ấy qua năm tháng nuôi dưỡng và hun đúc lên tinh thần dân tộc trong mỗi đ.ứa t.rẻ. Những thứ đó dần ngấm vào tiềm thức của trẻ giống như lời ru tiếng hát của bà, của mẹ khi còn nhỏ và sẽ theo các em suốt cả cuộc đời.
Mục tiêu giáo dục ở lớp 1 chỉ là đọc thông, viết thạo. Đối với môn Tiếng Việt, cuối năm lớp 1, chuẩn đầu ra các em phải đọc được tối thiểu 30 chữ/phút, chép chính tả 30 chữ/15 phút. Phụ huynh có con học sách của GS Hồ Ngọc Đại ban đầu mới tiếp xúc có vẻ hoang mang, thấy những trẻ khác đã học chữ, nhưng con nhà mình toàn thấy các khối tròn, vuông, tam giác. Đó là cách phân tích ngữ âm, sau đó đưa chữ vào thay thế. Nhưng chỉ sau một học kỳ, thấy kết quả của học sinh học Công nghệ giáo dục khác hẳn, rất ít học sinh đạt mức đọc 30-35 chữ/phút, hầu hết các em đọc với tốc độ 70, thậm chí 100 chữ/phút. Khả năng tập chép cũng nhanh hơn hẳn.
PV: Bộ sách giáo khoa mới phục vụ cho đợt cải cách giáo dục sắp tới với những tiêu chí mới, tuy nhiên, GS Hồ Ngọc Đại cho biết, sẽ không sửa bộ sách, ông nghĩ như thế nào về vấn đề này?
PGS Nguyễn Kế Hào: Nếu tôi là GS Hồ Ngọc Đại, tôi cũng không sửa, vì nếu sửa sẽ làm mất đi tinh thần của bộ sách. Sách giáo khoa công nghệ giáo dục có hệ thống lý luận nhất quán, phù hợp với đường lối, quan điểm hiện nay. Thứ 2 là có giá trị thực tiễn, thực hiện có hiệu quả.
Những quan điểm, triết lý giáo dục được nêu ra trong đợt cải cách giáo dục sắp tới, thực chất đã được GS Hồ Ngọc Đại nêu ra và đưa vào áp dụng từ lâu. Triết lý lấy học sinh làm trung tâm, giáo dục hướng đến phát triển năng lực cá nhân, không so sánh các học sinh với nhau mà chú trọng vào sự thay đổi, tiến bộ của các em với chính bản thân mình…
Các nhà trường hiện nay đều có khẩu hiệu “đi học là hạnh phúc”, “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, những khẩu hiệu này đã được GS Hồ Ngọc Đại đưa ra từ cách đây 40 năm ở trường Thực nghiệm, thời điểm mọi người đều nghĩ GS Đại ảo tưởng, nhưng giờ lại thừa nhận.
Ở bậc tiểu học, thầy Đại cũng đã chủ trương bỏ xếp loại điểm số, phương pháp học tập học sinh là trung tâm, thầy là người thiết kế, trò thi công đã được GS Hồ Ngọc Đại áp dụng từ lâu, đến giờ mới thấy ngành giáo dục mới đưa vào.
Hơn nữa, Nghị quyết 29 chủ trương “một chương trình, nhiều sách giáo khoa”, nhưng hội đồng thẩm định lại yêu cầu phải đủ, không được thừa, không được thiếu. Như vậy bản chất chỉ là 1 vì tất cả đều phải theo 1 khuôn. Đáng ra chỉ cần quy định chuẩn kiến thức của các bộ sách và chuẩn đầu ra học sinh là đủ.
PV: Xin cảm ơn ông./.
Theo VOV
Muốn qua được ải thẩm định, sách giáo khoa mới cần phải đạt 13 tiêu chí
Bản thảo sách giáo khoa được đ.ánh giá "đạt" khi đáp ứng đầy đủ tiêu chí về nội dung, phương pháp giáo dục, cấu trúc, ngôn ngữ hay hình thức trình bày.
Ngày 12/9, Hội đồng thẩm định sách giáo khoa lớp 1 theo chương trình giáo dục phổ thông mới thông tin, Tiếng Việt 1- Công nghệ giáo dục của Giáo sư Hồ Ngọc Đại bị đ.ánh giá "không đạt" ngay ở vòng thẩm định đầu tiên.
Cụ thể, sách đã bị 15/15 thành viên hội đồng xếp loại "Không đạt" với gần 300 nội dung, chi tiết cần sửa, cần bỏ, phần lớn là những nội dung mà hội đồng cho rằng sách "vượt chương trình", "quá khó với học sinh lớp 1", một số vấn đề kỹ thuật, trình bày.
Bản thảo sách giáo khoa được đ.ánh giá "đạt" khi đáp ứng đầy đủ tiêu chí về nội dung, phương pháp giáo dục, cấu trúc, ngôn ngữ hay hình thức trình bày. (Ảnh minh họa: VTV)
Việc đ.ánh giá và đưa ra quyết định dựa trên 4 tiêu chuẩn với 13 tiêu chí được quy định ở Thông tư 33 năm 2017 do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
Chiếu theo quy định tại của Bộ Giáo dục và Đào tạo 13 tiêu chí để đ.ánh giá sách giáo khoa xếp loại "đạt" bao gồm:
Điều kiện tiên quyết của sách giáo khoa
1. Nội dung và hình thức sách giáo khoa không trái với quy định của pháp luật Việt Nam và phù hợp với tiêu chuẩn quốc gia về xuất bản phẩm.
2. Nội dung và hình thức sách giáo khoa không mang định kiến về sắc tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, giới, lứa t.uổi và địa vị xã hội.
Nội dung sách giáo khoa
3. Nội dung sách giáo khoa thể hiện đúng và đầy đủ nội dung của chương trình môn học hoặc hoạt động giáo dục; bảo đảm tính cơ bản, khoa học, thiết thực, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
4. Các thuật ngữ, khái niệm, định nghĩa, số liệu, sự kiện, hình ảnh bảo đảm chính xác, khách quan, nhất quán và phù hợp với trình độ học sinh; các số liệu, sự kiện, hình ảnh có nguồn gốc rõ ràng.
5. Các thành tựu khoa học mới liên quan đến chương trình môn học, hoạt động giáo dục được cập nhật, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và phù hợp với mục tiêu của chương trình môn học, hoạt động giáo dục.
6. Những nội dung giáo dục về chủ quyền quốc gia, quyền con người, quyền t.rẻ e.m, bình đẳng giới, phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu được thể hiện hợp lý.
Phương pháp giáo dục và đ.ánh giá kết quả giáo dục trong sách giáo khoa
7. Các bài học trong sách giáo khoa tạo điều kiện cho giáo viên vận dụng sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học lấy hoạt động học của học sinh làm trung tâm; tạo cơ hội và khuyến khích học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập, phát huy tiềm năng của mỗi học sinh.
8. Các bài học trong sách giáo khoa thể hiện đúng, đủ, rõ mức độ đáp ứng yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực của học sinh và yêu cầu về đ.ánh giá kết quả giáo dục được quy định trong chương trình môn học, hoạt động giáo dục, làm cơ sở cho việc đ.ánh giá chính xác kết quả giáo dục.
Cấu trúc sách giáo khoa
9. Cấu trúc sách giáo khoa có đủ các thành phần cơ bản sau: phần, chương hoặc chủ đề; bài học; giải thích thuật ngữ; mục lục.
10. Cấu trúc bài học trong sách giáo khoa bao gồm các thành phần cơ bản sau: mở đầu, kiến thức mới, luyện tập, vận dụng.
Ngôn ngữ sử dụng trong sách giáo khoa và hình thức trình bày sách giáo khoa
11. Ngôn ngữ sử dụng trong sách giáo khoa là tiếng Việt (trừ sách giáo khoa ngoại ngữ và sách giáo khoa tiếng dân tộc thiểu số), bảo đảm các quy định về chính tả và ngữ pháp, các chữ viết tắt, các ký hiệu, phiên âm, đơn vị đo theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo; diễn đạt trong sáng, dễ hiểu, thể hiện chính xác nội dung cần trình bày, phù hợp với lứa t.uổi học sinh.
12. Hình thức trình bày sách giáo khoa cân đối, hài hòa giữa kênh chữ và kênh hình, hệ thống ký hiệu, biểu tượng, kiểu chữ, cỡ chữ.
13. Tranh, ảnh, bảng biểu, đồ thị, bản đồ, hình vẽ trong sách giáo khoa rõ ràng, chính xác, cập nhật, có tính thẩm mỹ, phù hợp với nội dung bài học, lứa t.uổi học sinh và chỉ rõ nguồn trích dẫn.
Chia sẻ với Báo điện tử Giáo dục Việt Nam, Giáo sư Trần Đình Sử - Chủ tịch Hội đồng thẩm định môn tiếng Việt chia sẻ, khi chúng ta đã xây dựng và ban hành được chương trình mới thì phải xây dựng được một bộ sách giáo khoa phù hợp cho chương trình mới.
Hội đồng thẩm định sách giáo khoa phải bám sát vào 4 điều, 13 tiêu chí và 40 chỉ báo trong Thông tư 33/2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tiêu chuẩn sách giáo khoa theo chương trình giáo dục phổ thông mới để đ.ánh giá bộ sách có đáp ứng yêu cầu hay không.
Thùy Linh
Theo GDTĐ
Loại sách công nghệ giáo dục: Hội đồng thẩm định đi ngược tinh thần đổi mới? Việc sách công nghệ giáo dục của Giáo sư Hồ Ngọc Đại bị hội đồng thẩm định sách giáo khoa của Bộ Giáo dục và Đào tạo loại ngay từ vòng một đang khiến dư luận xôn xao. Bộ sách đang được triển khai ở 49 tỉnh thành trên cả nước, với trên 931.000 học sinh, trong đó rất nhiều tỉnh vùng sâu...