Runit Dome: ‘Ngôi mộ’ bê tông đang khiến giới khoa học sợ đến toát mồ hôi!
Runit Dome được xây dựng từ năm 1977 đến 1980 để chứa chất thải phóng xạ từ các vụ thử hạt nhân trong Chiến tranh Lạnh.
Quần đảo Marshall là một quốc đảo đẹp như tranh vẽ nằm ở Thái Bình Dương giữa Hawaii và Philippines. Nhưng giữa những cây dừa và làn nước trong vắt lại là một kiến trúc mái vòm bằng bê tông khổng lồ. Kiến trúc này được gọi là Runit Dome – một “ngôi mộ” chứa chất thải hạt nhân – trong quá khứ, đây là một địa điểm thử nghiệm hạt nhân của Hoa Kỳ.
Quần đảo Marshall, tên chính thức Cộng hòa Quần đảo Marshall, là một đảo quốc nằm gần xích đạo trên Thái Bình Dương.
Từ năm 1946 đến năm 1958, Hoa Kỳ đã cho nổ 67 quả bom hạt nhân và bom khí quyển trên đảo san hô Enewetak và đảo san hô Bikini ở quần đảo Marshall. Với mục đích giành lợi thế trước Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ đã sử dụng quốc đảo này làm địa điểm thử nghiệm không chỉ bom hạt nhân mà cả vũ khí sinh học.
Vào những năm 1970, Hoa Kỳ đã cố gắng dọn sạch các sản phẩm phụ nguy hiểm trong quá trình thử nghiệm của mình bằng cách chôn chúng dưới một kiến trúc mái vòm bê tông dày 18 inch (40,7 cm) trên đảo Runit thuộc đảo san hô Enewetak, được gọi là Runit Dome, hay còn được gọi đơn giản là “ngôi mộ”. Trên thực tế, đây chỉ là giải pháp tạm thời và theo thời gian, ngôi mộ hạt nhân này đã khiến cho nhiều người lo sợ về một thảm họa sinh thái khi nó bắt đầu cũ đi.
Runit Dome được xây dựng để chứa chất thải hạt nhân, nhưng một số chuyên gia cảnh báo rằng nó đang có nguy cơ sụp đổ.
Câu chuyện về Runit Dome bắt đầu vào những năm 1940, khi Mỹ xác định quần đảo Marshall là địa điểm thích hợp để thử vũ khí hạt nhân. Theo The Guardian, lý do nơi đây được lựa chọn là vì nó có dân số thấp, kết hợp với khoảng cách xa với các quốc gia và tuyến đường vận chuyển khác.
Năm 1946, Mỹ thả quả bom hạt nhân đầu tiên xuống quần đảo. Trong 5 năm tiếp theo, họ đã thả thêm 8 quả bom hạt nhân nữa — có sức công phá từ 23 đến 225 kiloton — đã được kích nổ gần cả đảo san hô Enewetak và đảo san hô Bikini.
Vụ nổ Castle Bravo tại đảo san hô Bikini ở quần đảo Marshall. Ngày 1 tháng 3 năm 1954.
Năm 1952, chính phủ Mỹ bắt đầu thử nghiệm nhiều hơn trên quần đảo này. Theo Los Angeles Times, Mỹ đã thả 25 quả bom hạt nhân trong vòng 4 năm tiếp theo, bao gồm quả bom có tên Castle Bravo mạnh gấp 1.000 lần quả bom ném xuống Hiroshima và Nagasaki. Nó được coi là quả bom khinh khí mạnh nhất từng được Mỹ kích nổ.
Video đang HOT
Tốc độ của các vụ nổ hạt nhân tăng nhanh vào cuối những năm 1950, khi các nhà chức trách Mỹ lo lắng về lệnh cấm thử nghiệm trên mặt đất. Chỉ riêng trong năm 1958, có 33 quả bom đã được ném xuống từ ngày 28 tháng 4 đến ngày 18 tháng 8.
Nhưng ngay cả sau khi Hiệp ước cấm thử nghiệm có giới hạn được ký kết vào năm 1963, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục thử nghiệm vũ khí trên quần đảo Marshall – không phải vũ khí hạt nhân. Bắt đầu từ năm 1968, hàng chục loại vũ khí sinh học cũng đã được thử nghiệm tại đây.
Đến những năm 1970, Hoa Kỳ không còn nhu cầu thử nghiệm vũ khí trên quần đảo Marshall. Tuy nhiên, trong hàng thập kỷ. các vụ nổ đã tàn phá cảnh quan tại quần đảo Marshall, để lại những miệng hố khổng lồ và tệ nhất là để lại hàng tấn chất thải phóng xạ.
Đám mây hình nấm do quả bom hạt nhân Ivy King thả xuống phía bắc đảo Runit năm 1952.
Sau đó, Hoa Kỳ đã dọn dẹp quần đảo Marshall, điều này nhanh chóng dẫn đến việc xây dựng một “ngôi mộ” bằng bê tông trên đảo Runit có tên là Runit Dome.
Quá trình hình thành Runit Dome
Năm 1972, Hoa Kỳ đồng ý trả lại đảo san hô Enewetak cho cư dân sau khi họ đe dọa hành động pháp lý. Theo The New York Times, Mỹ cũng đồng ý làm sạch đảo san hô. Nhưng người Mỹ nhanh chóng gặp vấn đề.
Đầu tiên, có hơn 3,1 triệu feet (gần 1 triệu mét) khối chất phóng xạ trên quần đảo. Đảo Runit của đảo san hô tỏ ra đặc biệt có vấn đề, vì nó từng là nơi diễn ra 11 vụ thử hạt nhân và đã để lại “sự ô nhiễm cao dưới bề mặt”. Các đồng vị phóng xạ ở đó có chu kỳ bán rã 24.000 năm – do đó đảo Runit sẽ luôn độc hại đối với con người.
Vì vậy, Ủy ban Năng lượng Nguyên tử, (Bộ Năng lượng ngày nay) và Bộ Quốc phòng của Hoa Kỳ đã đưa ra kế hoạch thu thập các mảnh vụn phóng xạ từ khắp đảo san hô Enewetak và đổ chúng vào miệng núi lửa Runit, sau đó bao phủ toàn bộ bằng một mái vòm bê tông. Do Quốc hội Mỹ từ chối trả tiền cho các nhà thầu tư nhân nên chính phủ đã nhờ quân đội Hoa Kỳ thực hiện công việc này.
Bộ quần áo bức xạ màu vàng nhanh chóng bị loại bỏ vì chúng không thực tế đối với cái nóng khắc nghiệt trên đảo Runit.
Từ năm 1977 đến năm 1980, khoảng 4.000 quân nhân Hoa Kỳ đã xúc đất và mảnh vụn bị ô nhiễm đổ vào miệng núi lửa. Họ trộn các mảnh vụn với bê tông, sau đó niêm phong chúng bên trong Runit Dome.
Mặc dù một số biện pháp an toàn đã được đưa ra, nhưng hầu hết đều nhanh chóng bị loại bỏ. Chẳng hạn, đảo san hô quá nóng để mặc bộ quần áo bức xạ màu vàng, và các thiết bị lấy mẫu không khí để theo dõi lượng plutonium hấp thụ nhanh chóng bị hỏng.
“Trong quá trình xây dựng, chúng tôi thường bị bao phủ bởi bụi chứa plutonium – giống như phấn rôm trẻ em”, Paul Laird, người lái máy ủi trong quá trình xây dựng Runit Dome, kể lại với The New York Times.
Laird và hàng trăm quân nhân khác đã giúp xây dựng Runit Dome, sau đó đều bị ung thư, các vấn đề về xương và thậm chí là dị tật bẩm sinh ở con cái của họ.
Quân đội Hoa Kỳ đã thu thập các mảnh vỡ phóng xạ mà không có đồ bảo hộ.
Trong khi đó, Runit Dome cũng là mối đe dọa đối với người Marshallese, những người đã tái định cư ở phần phía nam của đảo san hô Enewetak — đặc biệt là khi biến đổi khí hậu có nguy cơ làm hỏng nó và giải phóng chất phóng xạ bên trong.
Mối nguy thường trực
Đối với Marshallese, Runit Dome là một thảm họa theo nhiều cách. Trước hết, nó đại diện cho lịch sử thử nghiệm hạt nhân của Hoa Kỳ. Và thứ hai, nó gây nguy hiểm nghiêm trọng khi mái vòm bê tông bắt đầu cũ đi.
Nerje Joseph từng là một đứa trẻ trên đảo san hô Rongelap khi vụ nổ Castle Bravo diễn ra vào ngày 1 tháng 3 năm 1954. Cô ấy nói với Los Angeles Times rằng cô ấy nhớ ngày có “hai mặt trời” và bụi phóng xạ hạt nhân đã trút xuống nhà cô ấy như thế nào. Mặc dù Hoa Kỳ đã sơ tán Joseph và những người khác hai ngày sau đó, nhưng nhiều người đã gặp vấn đề về sức khỏe sau này trong cuộc sống.
Một số cảnh báo rằng Runit Dome là một thảm họa đang chực chờ xảy ra.
Trên thực tế, Runit Dome chứa 111.000 mét khối mảnh vụn phóng xạ và các chuyên gia lo ngại rằng một cơn bão do biến đổi khí hậu gây ra có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngôi mộ này và sau đó những chất thải hạt nhất có thể lan ra Thái Bình Dương.
Các nhà khoa học phát hiện nơi ẩn náu tốt nhất nếu xảy ra thảm hoạ hạt nhân
Một nhóm các nhà nghiên cứu đã phát hiện nơi dễ sống sót nhất trước một vụ nổ hạt nhân.
Hình ảnh một vụ thử ở đảo san hô Mururoa vào năm 1971. Ảnh: AFP
Bom hạt nhân được biết đến là "kẻ hủy diệt" kinh hoàng. Song dù chúng có thể tàn phá một khu vực rộng lớn và khiến nhiều người thiệt mạng, con người hoàn toàn có thể sống sót sau một vụ nổ hạt nhân, miễn là trú ẩn ở vị trí đủ xa quả cầu lửa.
Theo nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Vật lý chất lỏng, các nhà khoa học đã xem xét cụ thể thiệt hại do sóng xung kích do vụ nổ hạt nhân tạo ra. Những đợt sóng này thường đủ mạnh và nhanh đến mức có thể nhấc bổng một người lên không trung.
Các nhà khoa học đã sử dụng các mô hình máy tính tiên tiến để xem sóng xung kích từ một quả bom hạt nhân đi qua một cấu trúc đứng vững như thế nào. Họ đã xem xét tốc độ sóng xung kích ở nhiều nơi khác nhau - bao gồm cửa sổ, cửa ra vào, hành lang và các khu vực khác nhau của căn phòng, để xem nơi tồi tệ nhất là ở đâu.
Ông Dimitris Drikakis, Giáo sư tại Đại học Nicosia ở Cộng hoà Cyprus, đồng tác giả của nghiên cứu, cho biết: "Trước nghiên cứu của chúng tôi, mối nguy hiểm đối với những người bên trong tòa nhà bê tông cốt thép chịu được sóng nổ là không rõ ràng. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng tốc độ sóng xung kích vẫn là một mối nguy hiểm đáng kể và vẫn có thể dẫn đến thương tích nghiêm trọng hoặc thậm chí tử vong".
Đồng tác giả - Giáo sư Nicosia Ioannis Kokkinakis cho rằng: "Các vị trí nguy hiểm nhất trong nhà cần tránh là cửa sổ, hành lang và cửa ra vào. Mọi người nên tránh xa những địa điểm này và ngay lập tức trú ẩn".
Tất nhiên, thời gian giữa vụ nổ và sóng xung kích xuất hiện có thể chỉ là vài giây, vì vậy, con người sẽ phải phản ứng rất nhanh khi thời điểm đó xảy đến.
Các tác giả lưu ý rằng ngoài sóng xung kích, một quả bom hạt nhân còn mang đến vô số mối nguy hiểm khác, bao gồm bụi phóng xạ, các tòa nhà bị hư hại có thể đổ nát và sụp đổ, hư hỏng đường dây điện, đường khí đốt và tất nhiên là cả đám cháy do chính quả cầu lửa gây ra.
"Mọi người nên quan tâm đến tất cả những điều trên và tìm kiếm sự trợ giúp khẩn cấp ngay lập tức", ông Drikakis lưu ý.
Đáng chú ý, trước đây thường có quan niệm rằng những người trú ẩn bên trong tòa nhà được xây dựng kiên cố bằng bê tông cốt thép có thể chịu được sóng xung kích từ vụ nổ hạt nhân. Song điều này đã được nghiên cứu mới phủ nhận.
Theo đó, những không gian hẹp bên trong những căn phòng, các tòa nhà thực tế có thể góp phần vào tốc độ của sóng xung kích, tạo ra những "luồng gió" có thể xé toạc các góc với lực gấp 18 lần trọng lượng cơ thể con ngườii.
Tất nhiên, tình huống dễ sống sót nhất là các quốc gia không sử dụng vũ khí hạt nhân ngay từ đầu.
Houthi thừa nhận tấn công tàu Mỹ ở Vịnh Aden Ngày 19/1, lực lượng Houthi ở Yemen tuyên bố đã tiến hành một vụ tấn công bằng tên lửa nhằm vào một tàu Mỹ ở Vịnh Aden. Tàu Genco Picardy của Mỹ sau khi bị tấn công trên Vịnh Aden ngày 18/1/2024. Ảnh: AFP/TTXVN Trong một tuyên bố đăng tải trên kênh truyền hình al-Masirah của Houthi, người phát ngôn của lực lượng...