Rudolf Virchow – nhà cải cách vĩ đại của y học, không tin vào thuyết tiến hóa
Sự phát triển của khoa học, đặc biệt là lĩnh vực y học ngày nay có sự đóng góp vô cùng quan trọng của một bác sĩ người Đức tên Rudolf Virchow.
Trong suốt sự nghiệp nghiên cứu của mình, ông đã có nhiều phát hiện mới về các loại bệnh lý khác nhau, tiêu biểu là bệnh ung thư. Chính vì thế, ông được coi là cha đẻ của bệnh lý hiện đại. Bên cạnh đó, Virchow còn nổi tiếng là nhà khoa học kiên quyết phản đối thuyết tiến hóa của Darwin về nguồn gốc các loài.
Trong lịch sử y học, không có nhiều người hầu của nó đã tạo ra những lý thuyết đầy triển vọng đã thực hiện một cuộc cách mạng trong hệ thống tri thức. Nó chỉ là một nhà cải cách như vậy mà Virchow Rudolf, một nhà nghiên cứu bệnh học người Đức, được xem xét một cách đúng đắn. Y học, sau khi lý thuyết tế bào của ông nhìn thấy ánh sáng, bắt đầu hiểu quá trình bệnh lý theo một cách mới.
Đào tạo, tiến sĩ và nền tảng tạp chí
Virchow Rudolph sinh năm 1821, tại thị trấn Shifelbeyne, ở Phổ (ngày nay là Svidvin, Ba Lan). Cha ông là một chủ đất nhỏ. Năm 16 tuổi, Virchow Rudolf trở thành sinh viên của Học viện Y khoa Berlin. Ông tốt nghiệp cơ sở giáo dục này vào năm 1843. Sau 4 năm, khi chỉ mới 26 tuổi, Virkhov đã nhận được bằng tiến sĩ. Tại thời điểm này, ông làm việc như một công tố viên của một trong những bệnh viện lớn nhất ở Berlin. Đồng thời, Rudolf Virkhov đã thành lập một tạp chí khoa học có tên là Lưu trữ giải phẫu bệnh lý. Ông ngay lập tức giành được danh tiếng lớn ở châu Âu, và cũng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kiến thức trong lĩnh vực y học trong thế kỷ 19.
Báo cáo về tình hình ở các làng Ba Lan
Điều gây tò mò là ngay cả khi còn trẻ, trong chuyến công tác tới Upper Silesia, mục đích của nó là để loại bỏ nguyên nhân của cơn bão “đói” đang thịnh hành ở đó, Virchow Rudolf đã đến thăm Pszczyna, Rybnik, Raciborz, cũng như một số ngôi làng xung quanh. Sau đó, ông đã tạo ra một bản báo cáo, nơi ông mô tả sinh động sự lạc hậu về vệ sinh và nghèo đói của người dân Ba Lan địa phương. Rudolph yêu cầu cải thiện điều kiện sống của những người này, tổ chức giáo dục và hỗ trợ y tế. Ông đã xuất bản báo cáo này trong một tạp chí, biên tập viên trong đó.
Nghiên cứu tế bào học
Năm 1843, sau khi bảo vệ luận án tiến sĩ, Rudolph bắt đầu nghiên cứu vật liệu tế bào. Virkhov đã dành nhiều ngày ra khỏi kính hiển vi. Được thực hiện với sự nhiệt tình tuyệt vời, công việc đe dọa anh bị mù. Kết quả của những người lao động, vào năm 1846, ông đã phát hiện ra các tế bào thần kinh đệm (bộ não bao gồm chúng).
Khi Virkhov mới bắt đầu hoạt động khoa học, tế bào học, nghĩa là khoa học về tế bào, đã phát triển nhanh chóng. Các nhà nghiên cứu đã bị thuyết phục rằng các tế bào thoái hóa thường có thể được tìm thấy trong các cơ quan động vật khỏe mạnh. Đồng thời, trong các mô gần như bị phá hủy hoàn toàn bởi căn bệnh này, có những người khỏe mạnh. Virchow trên cơ sở này bắt đầu khẳng định rằng tổng số hoạt động của các tế bào tạo nên cơ thể là toàn bộ hoạt động của nó. Đó là một cái nhìn mới về chức năng của nó. Chỉ có một tế bào đóng vai trò là người mang sự sống, như Rudolf Virchow tin tưởng. Lý thuyết tế bào của anh ấy rất thú vị. Căn bệnh, như Virkhov tin, cũng là sự sống, nhưng tiến triển trong điều kiện thay đổi. Chúng ta có thể nói rằng đây là cốt lõi của giáo lý của Rudolph. Ông gọi đó là bệnh lý tế bào. Rudolph Virkhov đã chứng minh rằng bất kỳ tế bào nào chỉ có thể hình thành từ một số khác.
Thành lập trường phái sinh lý
Ở tuổi 28, vào năm 1849, Virchow trở thành người đứng đầu Khoa Bệnh lý, nằm ở Wurzburg. Vài năm sau anh được mời đến Berlin. Tại thủ đô của Đức, Virchow đã dành phần còn lại của cuộc đời mình. Ông được coi là người sáng lập trường phái sinh lý học tin rằng sinh vật là tổng của các tế bào độc lập và cuộc sống của nó là tổng của cuộc sống của họ. Virchow, do đó, xem sinh vật như một cái gì đó được chia thành các phần có sự tồn tại của riêng họ.
Trudy Virkhov
Năm 1847, Virkhov nhận được danh hiệu tư nhân. Sau đó, anh lao vào giải phẫu bệnh lý. Các nhà khoa học đã làm sáng tỏ những thay đổi xảy ra trong các bệnh khác nhau trong chất nền vật chất. Ông đã đưa ra những mô tả rất quan trọng về bức tranh hiển vi của các mô bệnh. Nhà khoa học đã kiểm tra với một ống kính 26 nghìn xác . Ông đã tóm tắt quan điểm khoa học của mình vào năm 1855. Ông đã xuất bản chúng trong bài báo “Bệnh lý tế bào” trong tạp chí của mình. Do đó, vào năm 1855, Rudolf Virkhov đã chứng minh rằng bằng cách phân chia tế bào mẹ, những tế bào mới được hình thành. Ông lưu ý rằng tất cả các tế bào có cấu trúc tương tự nhau. Ngoài ra, vào năm 1855, Rudolf Virkhov đã chứng minh rằng chúng tương đồng, vì chúng có cấu trúc tương tự và nguồn gốc duy nhất.
Lý thuyết của ông vào năm 1858 đã được xuất bản thành một cuốn sách riêng biệt bao gồm hai tập. Sau đó, các bài giảng có hệ thống của ông đã được xuất bản. Chúng lần đầu tiên được đưa ra theo một thứ tự đặc trưng của các quá trình bệnh lý chính, được xem xét từ một góc độ mới. Đối với một số quy trình, một thuật ngữ mới đã được giới thiệu, nó vẫn được bảo tồn cho đến ngày nay (CÂU CHUYỆN KẾT THÚC, Truyền huyết khối, Hồi, bệnh bạch cầu, v.v.). Virkhov đã tạo ra nhiều tác phẩm về các chủ đề sinh học nói chung. Ông đã viết các công trình về dịch tễ học của các bệnh truyền nhiễm. Nhiều bài báo của nhà khoa học này được dành cho phương pháp khám nghiệm tử thi, giải phẫu bệnh lý. Ngoài ra, ông là tác giả của lý thuyết về tính liên tục của huyết tương mầm.
Phê bình tác phẩm
Lưu ý rằng quan điểm lý thuyết chung của nhà khoa học này đã gặp phải một số ý kiến phản đối. Điều này đặc biệt đúng với sự nhân cách hóa của tế bào, có nghĩa là, một khái niệm rằng một sinh vật phức tạp là một liên đoàn tế bào. Ngoài ra, nhà khoa học đã phân tách tổng số các đơn vị quan trọng thành “các quận và vùng lãnh thổ”, khác với ý tưởng của Sechenov về vai trò của hệ thống thần kinh, thực hiện các hoạt động điều tiết. Sechenov tin rằng Virkhov đã tách một sinh vật riêng biệt ra khỏi môi trường. Bệnh tật, ông tin rằng, không thể chỉ được coi là vi phạm các chức năng quan trọng của một nhóm tế bào cụ thể. Nhưng S. P. Botkin là người hâm mộ lý thuyết về Virchow.
Vai trò của lý thuyết Virchow trong sự phát triển của y học
Nhà khoa học này tin rằng bệnh tật là kết quả của những xung đột xảy ra trong một “ xã hội tế bào”. Mặc dù thực tế là sai lầm của lý thuyết này đã được chứng minh vào thế kỷ 19, nhưng nó vẫn đóng một vai trò lớn trong sự phát triển của y học. Nhờ có cô, các nhà khoa học đã có thể hiểu được nguyên nhân của nhiều căn bệnh, ví dụ, cơ chế xuất hiện của khối u ung thư, vẫn là tai họa của loài người. Ngoài ra, lý thuyết Rudolph, giải thích nguyên nhân của các quá trình viêm khác nhau và vai trò của các tế bào bạch cầu trong chúng.
Hoạt động chính trị của Virkhov
Không chỉ là một học giả vĩ đại, mà còn là một chính trị gia là Rudolf Virchow. Tiểu sử của ông được đánh dấu bằng một số thành tựu trong lĩnh vực này. Ông lãnh đạo cuộc đấu tranh cho sự tiến bộ trong vệ sinh vệ sinh và trong y học. Năm 1862, ông trở thành thành viên của quốc hội. Rudolph là sáng kiến của một số cải cách trong lĩnh vực an sinh và vệ sinh xã hội. Ví dụ, việc xây dựng hệ thống nước thải ở thành phố Berlin là công lao của ông. Điều đó là hoàn toàn cần thiết vào thời điểm đó, vì chỉ trong năm 1861, khoảng 20 nghìn người đã chết ở đây vì bệnh tả.
Các hoạt động của Rudolph trong Chiến tranh Pháp-Phổ
Trong thời kỳ Chiến tranh Pháp-Phổ kéo dài từ năm 1870 đến 1871, Rudolf Virchow đã tổ chức các bệnh viện dã chiến trong các doanh trại nhỏ. Ông đã cố gắng làm như vậy để loại trừ nồng độ lớn của những người bị thương, vì điều này tạo ra một mối đe dọa đối với tỷ lệ mắc bệnh sốt. Ngoài ra, chính Virkhov là người chịu trách nhiệm tổ chức các chuyến tàu vệ sinh nhằm sơ tán người bị thương. Rudolf Virkhov vào năm 1880, là thành viên của Reichstag, là một đối thủ nặng ký của chính sách mà Bismarck theo đuổi. Năm 1902, ông qua đời, sống đến 81 năm.
Cho đến tận bây giờ, khoa học vẫn không quên tên của cha đẻ của lý thuyết tế bào, tên là Rudolf Virchow. Đóng góp của ông cho sinh học làm cho ông trở thành một trong những nhà khoa học giỏi nhất trong thời đại của ông.
Theo người nổi tiếng
Những phát minh kỳ lạ và hài hước trong lịch sử
Dưới đây là một số những phát minh trong lịch sử khiến bạn ngạc nhiên vì sự kỳ lạ và hài hước của chúng.
Thìa thổi nguội canh: Bức ảnh năm 1948 chụp lại một người đàn ông đang dùng một chiếc thìa máy có thể giúp thực khách thổi nguội canh trước khi ăn.
Bánh xe moto: Kỹ sư người Thụy Sĩ M. Gerder là người đang lái chiếc xe độc đáo này với động cơ và tay lái được đặt trong một bánh xe lớn.
Máy cắt cỏ tiện lợi: Phát minh này được giới thiệu ngày 14/10/1957. Chiếc máy cắt cỏ này có hệ thống điện có thể phục vụ việc thắp sáng, nghe đài, sử dụng điều hòa nhiệt độ và thậm chí còn có hệ thống làm mát giúp người cắt cỏ thưởng thức một ly nước lạnh trong ngày hè nóng nực.
Bánh xe phát sáng: Năm 1961, lốp xe phát sáng Goodyear đã được giới thiệu trước công chúng. Loại lốp xe này được làm từ một loại cao su nhân tạo có thể phát sáng nhờ các bóng đèn được đặt bên trong vành bánh xe.
Bức ảnh chụp vào tháng 6/1937 này cho thấy một bảo mẫu đang trông một em bé ở trong một chiếc cũi bằng kim loại được treo ở bên ngoài cửa sổ của một tòa nhà cao tầng.
Tẩu hút thuốc đôi: Hai người đàn ông đang hút một tẩu thuốc có tên là "Double Ender" ở New York ngày 2/6/1949.
Hầm trú bom hạt nhân: Hình ảnh một hầm trú bom hạt nhân có thể chứa từ 8 - 12 người giúp đảm bảo an toàn cho những người bên trong, nếu một quả bom hạt nhân 20 megaton phát nổ. Phát minh này được giới thiệu ngày 12/9/1958.
Bàn kết hợp với giường: Phát minh năm 1913 này ngoài chức năng sử dụng như một cái bàn thì còn có thể trở thành một chiếc võng để nghỉ ngơi.
Thuyền xuyên thấu: Bức ảnh năm 1941 cho thấy một người mẫu đang tạo dáng bên trong chiếc thuyền trong suốt "Lucite". Những chiếc thuyền như vậy được thiết kế để du khách có thể chiêm ngưỡng cả cảnh vật bên dưới nó.
Máy yêu cầu tiền boa tự động: Nhà phát minh Russell E. Oakes đã công bố sản phẩm "máy yêu cầu tiền boa tự động" với một chiếc tay giả và một thùng tiền được gắn quanh thắt lưng của người phục vụ.
Ghế ngồi 1 chân: Những chiếc ghế 1 chân năm 1953 được thiết kể nhằm giúp người sử dụng có thể di chuyển dễ dàng và tiết kiệm diện tích khi ngồi.
Máy cuộn Spaghetti: Máy cuộn Spaghetti năm 1968 của nhà phát minh người Pháp Alain Dham có thể tự động quấn mì, giúp việc thưởng thức món ăn này của các thực khách trở nên dễ dàng hơn.
Xe đạp tên lửa: Một kỹ sư người Đức đã chuẩn bị 12 chiếc tên lửa gắn đằng sau xe đạp của mình. Khoảnh khắc diễn ra sau đó là chiếc xe đạp đã nổ tung nhưng may mắn là người kỹ sư này không bị thương nghiêm trọng.
Ghế tắm nắng: Năm 1964, cô bé 10 tuổi Marne Smith đã nghĩ ra một cách dễ dàng để tránh bị nghẹo cổ khi nằm bên ngoài tắm nắng và sau đó chiếc ghế độc đáo này đã ra đời.
Động cơ phản lực jetpack: Robert Courter đã bay lên không trung khi thử một động cơ phản lực jetpack ở Ft. Myer, Virginia ngày 10/6/1969.
Máy pha cà phê trên ô tô: Bức ảnh năm 1950 cho thấy một người tài xế đang sử dụng một chiếc máy pha cà phê được tích hợp ngay trên chiếc xe của ông. Theo người nghĩ ra ý tưởng này, chiếc máy có đủ nước để pha 3 cốc cà phê, cùng như có thể được sử dụng để nấu súp hoặc luộc trứng.
Ống hút thuốc lá chuỗi: Người mẫu Frances Richards đang hút một chuỗi những điếu thuốc lá được gắn trên một chiếc ống đặc biệt.
Theo Kiều Anh/VOV
Lầu Năm Góc tìm kiếm người ngoài hành tinh như thế nào? Hàng triệu đô la được chi cho sự dịch chuyển tức thời và tìm kiếm người ngoài hành tinh nhưng hiện chưa có kết quả gì. Canh trong phim: JK-Produktion Stop Motion Studio/YouTube Lầu Năm Góc đã công bố xác nhận rằng họ đã chi hàng triệu đô la để nghiên cứu các vật thể bay không xác định để xem chúng có...