Quy chế đào tạo tiến sĩ: Nới 2 nút thắt thực tiễn
Quy chế đào tạo tiến sĩ mới đã tính toán và xử lý được 2 vấn đề vướng mắc trong thực tiễn một cách hợp lý và hài hòa
Bản thân tôi là một nghiên cứu sinh (NCS) chịu sự “giao thoa” giữa 2 quy chế đào tạo tiến sĩ (TS) cũ và mới, tôi hiểu được phần nào những vấn đề tồn tại trong thực tiễn của công tác này đối với cơ quan quản lý, nhà trường và học viên. Như nhiều nhận định cho thấy: Quy chế đào tạo TS mới chưa hẳn là mới hoàn toàn. Nó cơ bản kế thừa rất nhiều quy định của quy chế cũ, do vậy tính cải tiến và những ưu điểm của quy chế cũ vẫn còn nguyên giá trị.
Yêu cầu ngoại ngữ “dễ thở” hơn
Theo đó, NCS đã thuận lợi hơn (chứ không phải dễ dàng) khi muốn dự thi vào cơ sở đào tạo. Nếu như quy chế trước yêu cầu tiếng Anh IELT 5.5 hoặc TOEFL IBT 46 điểm trở lên thì nay chấp nhận chứng chỉ ngoại ngữ bậc 4 (B2) theo khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam. Nhiều người nghĩ rằng thi chứng chỉ ngoại ngữ ở các trường ĐH của Việt Nam được phép cấp chứng chỉ này vẫn “dễ chịu” hơn các tổ chức quốc tế (Hội đồng Anh, Cambrighe, IIG…). Tuy nhiên, cũng không “dễ nhằn” vì B2 là tương đối khó. Cũng chính vì ngoại ngữ B2 thi trên máy tính (theo Thông tư 23/2017 của Bộ GD-ĐT) do các trường ĐH trong nước tổ chức mà nhiều khóa NCS chúng tôi rất ít người đạt được. Quy định thi đánh giá năng lực ngoại ngữ 6 bậc theo TT 23/2017 đã siết chặt việc thi ngoại ngữ mà các năm trước đó rất dễ dàng thi được B2 khung châu Âu.
Khi không thể thi được tiếng Anh B2 thì một số NCS sẽ phải đi đường vòng, là mất khoảng 2 năm để theo học một văn bằng 2 tiếng Anh của một trường ĐH nào đó để thay thế. Vừa qua, sai phạm về đào tạo văn bằng 2 tiếng Anh của một trường ĐH tư thực ở Hà Nội mà Bộ Công an điều tra là một ví dụ cho việc nhiều NCS đã đi khắp nơi tìm “đầu ra” để bảo vệ luận án của mình.
Nhìn xa hơn nữa về năm 2009, chúng ta có quy chế đào tạo TS theo Thông tư số 10/2009 của Bộ GD-ĐT quy định tuyển sinh đầu vào về ngoại ngữ là chuẩn trình độ B1 và đầu ra là chuẩn trình độ B2 theo khung tham chiếu châu Âu. Khoảng thời gian từ năm 2008 đến 2015, trong quá trình thực hiện Đề án Ngoại ngữ 2020 của Chính Phủ thì có 10 đơn vị được phép cấp chứng chỉ theo khung này. Những năm 2012-2016, báo chí nói nhiều về các “lò đào tạo TS” cũng một phần vì đầu vào ngoại ngữ quá dễ và đầu ra cũng không quá khó. Ngày 13-7-2017, Bộ GD-ĐT ra Công văn số 2973 về việc xử lý sau thanh tra đối với một vài trường sai phạm trong 10 đơn vị được cấp phép này.
Trao bằng tiến sĩ tại Trường ĐH Bách khoa Hà Nội. (Ảnh: KIM CHI)
Video đang HOT
Vừa sức về bài báo nghiên cứu
Về vấn đề bài báo nghiên cứu, quy chế đào tạo TS mới đã “cởi trói” hơn cho cả NCS và giáo viên hướng dẫn. Như chúng ta đã biết, tạp chí quốc tế thì cũng có 5-7 loại, có những loại “ăn thịt” (ăn tiền) thì cũng không thiếu để NCS của ta tìm đến đăng tải (mang tính chống chế). Quy đinh mới chỉ cần 3 bài nghiên cứu đăng trên tạp chí trong nước là vừa sức cho NCS (khóa của tôi quy chế cũ yêu cầu là 2 bài 2016-2019). Nếu NCS mà đăng bài trên tạp chí chuyên ngành của mình thì cũng không dễ (vì trong ban biên tập toàn là các chuyên gia hàng đầu). Vì vậy, không thể nói tạp chí trong nước là không uy tín, nếu NCS nào muốn khẳng định năng lực của mình thì không thiếu các tạp chí chuyên sâu của ngành để viết và đăng tải.
Việc đưa ra 3 bài viết tạp chí trong nước ở dạng “vừa vừa” cũng là tạo điều kiện cho nhiều học viên trong quá trình vừa làm vừa học tập và vừa “luyện” nghiên cứu. Khi “lên trình” thì họ sẽ tìm các tạp chí nặng cân hơn, đây là một nhu cầu bản năng trong tư duy của con người. Về việc này, tôi đánh giá quy chế mới phản ánh đúng thực tế khách quan về trình độ của NCS ở nước ta.
Giúp NCS quyết tâm hơn
Theo đánh giá của tôi, quy chế này xét về góc độ xã hội và tâm lý thì quy chế mới hợp lý, hiệu quả. Với góc nhìn như một chính sách thì nó tạo động lực cho các nhà trường trong việc tuyển sinh, sử dụng đội ngũ giảng sư hướng dẫn, đưa những “tinh túy” (thành quả của các nghiên cứu ở nhà trường) và những “tinh hoa” (đội ngũ PGS,GS) vào thực hiện ở bậc học này (GS được hướng dẫn thêm 2 học viên, PGS tăng thêm 1 học viên). Còn về góc độ tâm lý, nó giúp “xốc lại tinh thần” trong đa số những người đang có ý định học TS. Nhiều người sẽ tự tin hơn và quyết tâm hơn để theo đuổi con đường học tập, đam mê nghiên cứu. So với quy chế trước thì cả người học, người thầy và cơ sở đào tạo mất đi nhiều năng lượng vì một số trở ngại như đã nêu.
Đây là một bước cải tiến về xóa bỏ rào cản, vướng mắc ở khâu kỹ thuật nhưng cũng không “cải lùi” về chất lượng, thời gian và quy trình đào tạo.
Quy chế đào tạo tiến sĩ mới gây tranh cãi: Bộ GD&ĐT nói gì?
Đại diện Bộ GD&ĐT lên tiếng trước tranh cãi về quy chế đào tạo tiến sĩ mới ban hành đang hạ chuẩn đầu vào và đầu ra.
Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ (Quy chế 18) vừa được Bộ GD&ĐT ban hành nhận nhiều ý kiến trái chiều. Bên cạnh các ý kiến ủng hộ, nhiều nhà quản lý, chuyên gia cho rằng quy chế mới hạ chuẩn về trình độ ngoại ngữ, công bố quốc tế trong đào tạo tiến sĩ.
Siết chặt công bố khoa học
Lý giải về việc "hạ chuẩn", PGS.TS Nguyễn Thu Thuỷ, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học, Bộ GD&ĐT cho hay Quy chế 18 lần này là khung, bao gồm các quy định, các mức cơ bản để đảm bảo chất lượng đào tạo tối thiểu bậc tiến sĩ.
Quy chế này tiếp tục đẩy mạnh tự chủ đại học theo Luật Giáo dục đại học, trên tinh thần giao nhiều quyền (kèm theo cả trách nhiệm giải trình) về đào tạo hơn cho các trường. Quy chế chỉ quy định các tiêu chuẩn căn bản, tối thiểu, đã tính đến sự đa dạng phong phú của các ngành nghề, lĩnh vực đào tạo.
Các trường căn cứ vào mục tiêu, năng lực đào tạo, khung cơ bản mà đưa ra những quy định riêng, yêu cầu bằng hoặc cao hơn trong việc đào tạo tiến sĩ. Đồng thời, công bố công khai minh bạch để cơ quan quản lý, xã hội và người học biết và giám sát, thực hiện. Lưu ý, việc đặt ra các tiêu chí thế nào sẽ là một trong những căn cứ quan trọng để cơ sở giáo dục đại học đó khẳng định uy tín, chất lượng đào tạo của mình.
Về ý kiến cho rằng quy chế mới hạ chuẩn đầu vào, đầu ra, Vụ trưởng bày tỏ, cần xem toàn văn quy chế, đặc biệt là quy định đánh giá luận án tại đơn vị chuyên môn tại điều 14. Theo đó, việc đánh giá luận án tại đơn vị chuyên môn được tổ chức khi nghiên cứu sinh đáp ứng đủ những yêu cầu theo quy chế và yêu cầu bổ sung của cơ sở đào tạo với từng chương trình đào tạo (nếu có).
PGS.TS Nguyễn Thu Thuỷ, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học, Bộ GD&ĐT.
Trong những yêu cầu được nêu tại quy chế, hiện được quan tâm nhất là yêu cầu liên quan đến công trình, sản phẩm khoa học của nghiên cứu sinh. Đây là minh chứng, chỉ số đánh giá chất lượng học tập, nghiên cứu của nghiên cứu sinh trong quá trình đạt tới học vị tiến sĩ. Tuy nhiên, việc mặc định cứ bài đăng báo quốc tế là tốt, chất lượng bài đăng tạp chí trong nước thấp là định kiến cần được nhìn nhận lại.
Quy chế 08 năm 2017 quy định công nhận các báo cáo bằng tiếng nước ngoài trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện hoặc bài báo đăng trên tạp chí khoa học nước ngoài có phản biện, chưa xem xét cụ thể mức độ uy tín của hội nghị hay hội thảo. Quy chế 18 quy định cụ thể hơn về những ấn phẩm được Hội đồng Giáo sư nhà nước đánh giá, và các hội nghị khoa học cũng phải thuộc danh mục WoS/Scopus.
Theo bà Thuỷ, so với thời điểm ban hành Quy chế 08 năm 2017, thì hiện tạp chí, ấn phẩm trong nước đầu tư nhiều về nguồn lực và chuyên môn. Thực tế, chất lượng của nhiều tạp chí ngày càng gia tăng, dần hướng tới các chuẩn quốc tế. Bên cạnh yêu cầu đầu ra, việc đảm bảo chất lượng đào tạo tiến sĩ còn thể hiện ở các quy định đầu vào, nhưng quan trọng hơn là quá trình học tập, nỗ lực và tiến bộ, chuẩn bị kỹ về kế hoạch, thời gian học tập, nghiên cứu.
Bộ GD&ĐT trong thời gian tới sẽ tập trung tăng cường giám sát (cùng với sự giám sát của giới khoa học, của toàn xã hội) đối với quá trình học tập, nghiên cứu của nghiên cứu sinh trong các cơ sở đào tạo.
Không để đào tạo tràn lan
Trước lo lắng việc mở rộng các yêu cầu đầu ra dẫn đến tình trạng tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ tràn lan, Vụ trưởng Nguyễn Thu Thủy cho biết, quy chế quy định rõ việc sinh hoạt chuyên môn của nghiên cứu sinh là quyền lợi và trách nhiệm, thực hiện như với giảng viên trợ giảng hoặc nghiên cứu viên cơ hữu của cơ sở đào tạo.
Như vậy, việc đào tạo không thể tràn lan, mà tập trung vào học thật, học có chất lượng. Nghiên cứu sinh phải cân nhắc kỹ khi quyết định theo học, và cần phải được cơ quan cử đi học tập, nghiên cứu theo hình thức chính quy.
Trong giai đoạn trước đây, Quy chế 08 đóng góp quan trọng trong việc đặt ra các chuẩn đầu ra, nhấn mạnh các công bố quốc tế, từ đó tăng cường quản lý chất lượng đầu ra của đào tạo tiến sĩ. Trong giai đoạn mới, nhận thức về sự đa dạng phong phú của các lĩnh vực ngành nghề đào tạo và sự cần thiết của việc ghi nhận và tiếp tục nâng cao chất lượng các công bố trong nước, những thay đổi trong quy chế mới là điều phù hợp.
Ở vai trò quản lý nhà nước, Bộ GD&ĐT sẽ đặt ra các tiêu chí, tiêu chuẩn phù hợp và giám sát việc thực hiện triển khai. Chúng ta sẽ cùng tiếp tục nỗ lực và có giải pháp cả trong hoạch định chính sách và thực thi trong thực tiễn để đấu tranh và hướng tới chất lượng thực chất.
Hướng tới sự công bằng trong đào tạo trình độ tiến sỹ trong nước Ngày 28/6/2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã ban hành Thông tư số 18 về Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sỹ, có hiệu lực thi hành từ ngày 15/8/2021 và thay thế Thông tư số 08, ngày 4/4/2017. Về cơ bản, Thông tư 18 tiếp tục kế thừa những nội dung quy định phù hợp của...