Quá trình ướp xác tự nhiên diễn ra thế nào?
Trong văn hóa cổ xưa, việc ướp xác nhằm tưởng niệm người chế.t nên nghi lễ này được thực hiện rất công phu.
Xá.c ướ.p của người Chinchorro là bằng chứng khảo cổ học lâu đời nhất được biết đến từ trước đến nay.
Tuy nhiên, đôi khi việc ướp xác cũng xảy ra trong những hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt.
Xá.c ướ.p sa mạc
Điều quan trọng của quá trình ướp xác tự nhiên là phá vỡ các giai đoạn phâ.n hủ.y tự nhiên bằng cách gây khó khăn cho những vi sinh vật và enzym phân giải cơ thể sau khi chế.t. Điều này có thể đạt được thông qua điều kiện cực lạnh, cực khô, môi trường giàu axit hoặc không có oxy.
Trong điều kiện khô cằn, cơ thể con người có thể tự chuyển thành xá.c ướ.p nếu thiếu nước. Với môi trường cực kỳ khô nóng, cơ thể có khả năng mất nước đủ nhanh trước khi các vi sinh vật và enzym kịp phân giải đa số mô, giúp bảo tồn cơ thể trong tình trạng tương đối tốt.
Trong cuốn sách “Taphonomy of Human Remains: Forensic Analysis of the Dead and the Depositional Environment”, nhóm tác giả Eline M. J. Schotsmans, Nicholas Márquez-Grant, Shari L. Forbes giải thích phần lớn enzym hoạt động trong môi trường có nước.
Do đó, việc thiếu nước sẽ dẫn đến việc chậm phâ.n hủ.y, thậm chí khiến quá trình này dừng lại. Trong ướp xác tự phát, quá trình mất nước tự nhiên của cơ thể diễn ra nhanh hơn so với sự phát triển của hoạt động enzym.
Tuy nhiên, không phải lúc nào cơ thể cũng thoát nước đồng đều. Một số bộ phận như bàn tay và cơ quan sin.h dụ.c sẽ mất nước tương đối nhanh nhưng những cơ quan nội tạng như tim sẽ cần nhiều thời gian hơn.
Một ví dụ nổi tiếng về xá.c ướ.p sa mạc là các xá.c ướ.p của người Chinchorro trên sa mạc Atacama. Đây được xem là bằng chứng khảo cổ học lâu đời nhất được biết đến về việc ướp xác nhân tạo của các th.i th.ể. Cho đến nay, hơn 300 xá.c ướ.p kiểu này đã được tìm thấy, bao gồm các xá.c ướ.p sơn màu đỏ, màu đen hoặc băng kín.
Nhiều khả năng một số th.i th.ể được chủ động ướp xác với niên đại lên tới 7.000 năm – lâu đời hơn 2.000 năm so với xá.c ướ.p Ai Cập cổ xưa nhất. Tuy nhiên, những xá.c ướ.p cổ xưa hơn được cho là hình thành tự nhiên do môi trường sa mạc, có thể lên tới 9.000 năm tuổ.i.
Xá.c ướ.p đầm lầy
Một cách hiệu quả khác để quá trình ướp xác tự nhiên diễn ra là đặt cơ thể vào trong đầm lầy than bùn. Một số lượng lớn xá.c ướ.p đầm lầy như vậy được phát hiện tại phía Bắc châu Âu, đặc biệt là Đan Mạch, Đức, Hà Lan, Thụy Điển, Ba Lan, Ireland và Anh.
Video đang HOT
Nếu ngâm trong đầm lầy than bùn, cơ thể sẽ tiếp xúc với nước lạnh có tính axit cao và thiếu oxy. Bên cạnh đó, một số phản ứng hóa học độc đáo tại đây sẽ thúc đẩy quá trình hóa xá.c ướ.p.
Theo cuốn “Taphonomy of Human Remains: Forensic Analysis of the Dead and the Depositional Environment”, một yếu tố then chốt là loại thực vật đặc trưng trong các đầm lầy than bùn. Những nơi này có đặc điểm là có rêu Sphagnum, mọc trên bề mặt đầm lầy. Các lớp dưới của đầm lầy chứa đầy Sphagnum phâ.n hủ.y.
Khi chế.t, rêu giải phóng một loại polysaccharide (đường đa) gọi là sphagnan, có những tính chất giúp loại bỏ ion kim loại khỏi một dung dịch. Kết quả là, một số ion kim loại như sắt, đồng hoặc kẽm không còn chỗ cho vi khuẩn, khiến chúng mất đi nguồn dinh dưỡng quan trọng.
Những điều kiện khắc nghiệt trên ngăn cản vi sinh vật bắt đầu phâ.n hủ.y, dù xương cuối cùng sẽ bị ăn mòn trong môi trường axit. Kết quả là cơ thể chuyển thành màu nâu, giữ được da, tóc và móng.
Một trong những ví dụ về xá.c ướ.p đầm lầy nổi tiếng nhất là người Tollund ( Tollund Man), được những người đào than bùn ở bán đảo Jutland, Đan Mạch, tình cờ phát hiện vào khoảng những năm 1950. Khi lần đầu thấy xá.c ướ.p, mọi người tưởng rằng đó là cậu bé mới mất tích trong vùng. Tuy nhiên, kết quả khám nghiệm cho thấy xá.c ướ.p này cổ xưa hơn gấp nhiều lần, có niên đại lên tới 2.400 năm.
Xá.c ướ.p ở trong tình trạng tốt đến mức các nhà khoa học thậm chí còn biết được bữa ăn cuối cùng của ông gồm những gì. Ông chế.t ở độ tuổ.i 30 – 40 trong một nghi thức hiến tế người.
Tollund Man bị tre.o c.ổ và đặt ở tư thế ngủ trong hố than bùn. Đây là cách xử lý xác đặc biệt bởi phần lớn người chế.t tại đây vào thời điểm đó bị hỏa thiêu và chôn dưới đất khô.
Xá.c ướ.p Tollund Man được đặt ở tư thế ngủ trong hố than bùn.
Xá.c ướ.p băng
Điều kiện lạnh và băng giá cũng là môi trường lý tưởng cho quá trình ướp xác tự nhiên, giống như việc bỏ một miếng thịt vào ngăn đông của tủ lạnh. Đa số enzym gắn liền với quá trình phâ.n hủ.y sẽ không hoạt động ở nhiệt độ dưới 0 độ C, nên chúng không thể phâ.n hủ.y các mô cơ thể.
Xá.c ướ.p Người băng Otzi là ví dụ điển hình về loại xá.c ướ.p tự nhiên này. Th.i th.ể của ông được phát hiện trên dãy Alps, khu vực biên giới Áo – Italy vào năm 1991. Ban đầu, các nhà chức trách Áo cho rằng đây là th.i th.ể của một vận động viên leo núi hiện đại vì cơ thể được bảo quản quá tốt. Tuy nhiên, người đàn ông này đã chế.t cách đây khoảng 5.300 năm.
Nhiệt độ toàn cầu tăng cao đang khiến nhiều sông băng, chỏm băng và lớp băng vĩnh cửu tan chảy. Điều này đồng nghĩa trong tương lai, nhân loại sẽ phát hiện nhiều xá.c ướ.p như Người băng Otzi. Thậm chí, các nhà khoa học tin rằng chúng ta sẽ tìm thấy xá.c ướ.p của người Neanderthal.
Loài gà duy nhất trên thế giới có móng vuốt ở cánh và bay như chim
Gà móng là thành viên cuối cùng còn sót lại của dòng chim cổ xưa phân nhánh theo hướng riêng cách đây 64 triệu năm, ngay sau sự kiện tuyệt chủng hàng loạt của khủng long.
Được tìm thấy ở Amazon và Orinoco ở Nam Mỹ, gà móng hay hoatzin (Opisthocomus hoazin) được coi là loài chim bí ẩn bậc nhất thế giới
Gà móng có cổ dài và đầu nhỏ. Chúng có khuôn mặt màu xanh lam không có lông với đôi mắt màu hạt dẻ, trên đỉnh đầu có một cái mào lông tua tủa
Mặt trên thân gà móng có màu xám đen, mặt dưới thân màu sáng, các lông bay phía ngoài của cánh có màu nâu, cái đuôi dài màu xám có phần chót màu trắng
Các con non có hai móng vuốt trên mỗi cánh. Ngay khi mới nở, chúng có thể sử dụng những móng vuốt này và bàn chân để bò quanh cành cây
Khi những kẻ săn mồi như diều hâu đen lớn tấn công khu vực làm tổ, những con gà móng trưởng thành sẽ bay ồn ào xung quanh để đán.h lạc hướng kẻ săn mồi, trong khi con non rời khỏi tổ và ẩn mình trong những bụi cây
Chúng có thể bơi dưới mặt nước để thoát khỏi nguy hiểm, sau đó sử dụng đôi cánh có móng của mình để trèo trở lại tổ an toàn
Những chiếc móng trên cánh của gà móng non có sự tương đồng đáng kể với Archaeopteryx, loài chim cổ xưa chỉ còn được biết đến qua các hóa thạch
Tuy nhiên, cũng có giả thuyết cho rằng móng vuốt của gà móng có nguồn gốc gần đây hơn và có thể là sự tiến hóa từ nhu cầu thường xuyên rời tổ và trèo lên dây leo và cây cối rậm rạp của chim non
Năm 2015, một nghiên cứu di truyền học chỉ ra rằng gà móng là thành viên cuối cùng còn sót lại của dòng chim cổ xưa phân nhánh theo hướng riêng cách đây 64 triệu năm, ngay sau sự kiện tuyệt chủng hàng loạt của khủng long
Chúng được xếp vào bộ Opisthocomiformes, họ hàng gần nhất của gà móng có thể là bộ Gà hoặc bộ Cu cu
Gà móng sống thành đàn và làm tổ theo đàn nhỏ. Thức ăn của chúng chủ yếu là lá cây, đôi khi ăn cả hoa và quả
Hệ thống tiêu hóa của gà móng độc nhất vô nhị trong các loài chim. Chúng lưu trữ các vi khuẩn đặc biệt ở phần trước của ruột để phâ.n hủ.y và lên men nguyên liệu thực vật mà chúng nuốt vào, giống như các loài gia súc và động vật nhai lại
Chúng thường đẻ hai hoặc ba quả trứng trong một cái tổ hình que trên cây treo trên mặt nước
Là một loài chim ồn ào, gà móng tạo ra nhiều loại tiếng kêu khàn khàn, bao gồm những tiếng rên rỉ, tiếng ộp ộp, tiếng rít, càu nhàu...
Hiện tại, gà móng có nguy cơ suy giảm do mất môi trường sống, mà chủ yếu là do nạn phá rừng ở Amazon
Ăn thịt đồng loại là một tục lệ tang lễ ở châu Âu cổ xưa? Theo một nghiên cứu mới, ăn thịt đồng loại là một tục lệ tang lễ thông thường ở châu Âu khoảng 15.000 năm trước. Người ta ăn thị.t ngườ.i chế.t không phải vì nhu cầu mà là một phần văn hóa. Các nhà nghiên cứu trước đây đã tìm thấy những chiếc cốc sọ người tại địa điểm Hang động Gough ở Anh....