‘Philippines rất khôn ngoan khi kiện Trung Quốc’
“Đây là bài khôn ngoan của Philippines khi mọi giải pháp ngoại giao đã thất bại. Mục tiêu của họ là công khai hóa, thể hiện lẽ phải; còn Trung Quốc không tuân thủ luật pháp, không có chính nghĩa”, thạc sĩ luật Nguyễn Hùng Cường phân tích.
- Ông đánh giá như thế nào về đơn kiện của Philippines khi mà Trung Quốc đã có bảo lưu không chấp nhận bất kỳ thủ tục nào về tranh chấp trên biển khi trở thành thành viên của Công ước Luật biển 1982?
- Tòa án được Philippines gửi đơn kiện là tòa án trọng tài quốc tế được thành lập theo phụ lục VII của UNCLOS (arbitral tribunal). Ngày 25/8/2006, Trung Quốc đã có báo cáo gửi Liên Hợp Quốc đưa ra các tuyên bố bảo lưu theo Điều 298 của UNCLOS. Theo các bảo lưu này Trung Quốc có quyền không chấp nhận bất kỳ biện pháp giải quyết tranh chấp nào theo quy định tại điều 287, bao gồm 4 phương pháp: một là Tòa án công lý của Liên hợp quốc, hai là Tòa án Luật biển quốc tế (ITLOS), ba là Tòa án trọng tài và bốn là Tòa án trọng tài đặc biệt (giải quyết các tranh chấp liên quan tới đánh bắt hải sản, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển hoặc nghiên cứu khoa học biển) đối với tất cả các loại tranh chấp được quy định tại điểm a,b,c Khoản 1 Điều 298.
Một số người, đặc biệt là một số học giả Trung Quốc, cho rằng Trung Quốc có thể từ chối thẩm quyền của Tòa án trọng tài và tòa án này không đủ thẩm quyền thụ lý đơn kiện vì Trung Quốc đã có văn bản bảo lưu này. Philippines khi đưa ra đơn kiện cũng biết rất rõ điều này. Tuy nhiên, phải xem xét kỹ các quy định tại điều khoản về quyền bảo lưu này có thể tạo thành chiếc khiên bảo vệ cho Trung Quốc trong mọi trường hợp hay không.
Thạc sĩ Nguyễn Hùng Cường (khoa Luật, ĐHQG Hà Nội) cho rằng Philippines đã lách qua một khe cửa hẹp, không đề cập tới các vấn đề mà Trung Quốc bảo lưu. Ảnh: Nguyễn Hưng.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 298các bảo lưu này chỉ áp dụng đối với những vấn đề liên quan đến các vụ tranh chấp về việc giải thích hay áp dụng các Điều 15, 74 và 83 tức là liên quan đến việc hoạch định ranh giới các vùng biển (bao gồm hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa các quốc gia có đường bờ biển kề nhau hay đối diện nhau) hay các vụ tranh chấp về các vịnh hay danh nghĩa lịch sử.
Philippines hiểu rõ điều này và họ rất khôn ngoan khi đưa ra đơn kiện của mình. Trong đơn kiện, Philippines không đưa ra các vấn đề hoạch định ranh giới các vùng biển nêu trên mà đưa các vấn đề sau: Một, đề nghị tòa trọng tài đưa ra phán quyết xác nhận đường ranh giới 9 đoạn (đường chữ U, đường lưỡi bò) là vi phạm UNCLOS 1982. Hai, việc Trung Quốc xây dựng công trình trên các bãi, vỉa đá ngầm trong phạm vi 200 hải lý của Philippines đã vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Phi trên thềm lục địa hay không. Ba, các luật nội địa Trung Quốc đưa ra (như cấm đánh bắt hải sản hàng năm) trên Biển Đông đã vi phạm UNCLOS. Bốn, việc Trung Quốc đã cản trở Philippines thực thi quyền lợi trong các vùng biển của mình cũng như ở các bãi, vỉa đá ngầm và vùng biển xung quanh đã vi phạm UNCLOS.
Hơn nữa, các bảo lưu tại điểm a,b,c khoản 1 Điều 298 UNCLOS chỉ áp dụng với các tranh chấp giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện. Rõ rằng Phillippines và Trung Quốc không phải là những quốc gia như vậy.
Philippines đã rất khôn ngoan khi lách qua một khe cửa hẹp, không đề cập tới các vấn đề mà Trung Quốc bảo lưu. Trên cơ sở các nghiên cứu của chúng tôi, tôi cho rằng tòa trọng tài có cơ sở để xác định thẩm quyền giải quyết những vấn đề mà Philippines đưa ra.
- Theo ông, diễn biến tiếp theo của vụ kiện là gì?
- Trước hết là về thủ tục trọng tài, mỗi bên sẽ chọn một tài viên cho mình từ danh sách trọng tài viên do Tổng Thư ký Liên hợp quốc lập ra. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, Tòa Trọng tài sẽ có 5 thành viên. Philippines sẽ cử một người là trọng tài từ danh sách do mình chọn. Sau đó, Trung Quốc sẽ có 30 ngày để đưa ra trọng tài của mình kể từ ngày Philippines gửi Thông báo khởi kiện cho Trung Quốc. Ba trọng tài còn lại sẽ do các bên thỏa thuận cử ra và công dân nước khác trừ khi các bên có thỏa thuận khác. Các bên cử Chánh toà của Toà trọng tài trong số ba trọng tài đó.
Như vậy, trong trường hợp Trung Quốc không đồng ý với thẩm quyền của Tòa trọng tài, thì tòa trọng tài vẫn được thành lập và trong vòng 60 ngày kể từ ngày nhận được thông báo khởi kiện của Philippines nếu Trung Quốc không chọn trọng tài cho mình thì Trung Quốc mất quyền lợi, phần thiệt sẽ thuộc về Trung Quốc.
- Trong trường hợp tòa đưa được phán quyết và giả sử những điều Philippines là đúng thì hiệu lực của phán quyết này ra sao?
- Nhìn xa hơn câu chuyện (thông thường thủ tục trọng tài sẽ mất 3-4 năm), giả sử tòa trọng tài đưa ra phán quyết đường chữ U, luật nội địa của Trung Quốc vi phạm luật quốc tế… thì hiệu lực phán quyết như thế nào? Có bác bỏ được Trung Quốc từ đó trở đi không được đưa ra đường chữ U nữa hay không?
Thực tế phán quyết đó không cấm được Trung Quốc tiếp tục thực thi các hành động vi phạm đó vì phán quyết của Tòa trọng tài không hề có biện pháp đảm bảo thực thi. Trong trường hợp có tranh chấp về vấn đề thi hành án thì theo UNCLOS, các bên có quyền đưa ra Tòa trọng tài đã đưa ra phán quyết để quyết định tuy nhiên điều đó không đảm bảo vấn đề thực thi phán quyết của Tòa. Dưới góc độ luật quốc tế hiện nay duy nhất chỉ có phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế mới có HĐBA Liên hợp quốc đứng ra bảo đảm thực thi.
Các nhà chiến lược của Phillippines chắc chắn cũng nhìn ra câu chuyện này, vì thế, cái họ hướng tới có lẽ không phải là hiệu lực của phán quyết. Mục tiêu của họ là công khai hóa mọi thứ, thể hiện họ là người đúng, là người có lẽ phải; còn Trung Quốc, ông là nước lớn nhưng không tuân thủ luật pháp, không có chính nghĩa.
Video đang HOT
Trung Quốc chắc chắn sẽ phải cân nhắc giữa hình ảnh của mình và những lợi ích đạt được khi làm sai, cái gì lớn hơn? Giữ hay hi sinh hình ảnh đó để chiếm lấy lợi ích từ các đảo, bãi đá ngầm? Với chủ trương “trỗi dậy hòa bình”, tư tưởng nước lớn muốn lãnh đạo thế giới, tôi nghĩ Trung Quốc sẽ phải cân nhắc rất kỹ nếu muốn tiếp tục thực hiện những hành vi sai trái này.
- Dưới góc độ ngoại giao, hành động của Philippines nói lên điều gì?
- Trong trường hợp này, đơn kiện của Phillippines mang lại một hệ quả rất thú vị: “quốc tế hóa vấn đề Biển Đông”. Từ trước tới nay, Trung Quốc vô cùng sợ điều này. Với lợi thế của “gã khổng lồ”, Trung Quốc luôn muốn dùng đàm phán song phương để “bẻ gãy từng chiếc đũa”. Đương nhiên khi Phillippines khởi kiện, dù chưa nói tới thắng hay thua, thì mọi người sẽ nhìn vào, nơi chàng David nhỏ bé chiến đấu với gã khổng lồ Goliat. Cả thế giới sẽ quan tâm, nhìn vào, báo chí đưa tin um xùm và người ta sẽ đón chờ phản ứng của Trung Quốc. Trung Quốc, với tư cách là một ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an, với sức mạnh của nền kinh tế thứ hai thế giới, họ sẽ chứng tỏ gì?
Là một nước lớn, chỉ riêng việc Trung Quốc từ chối ra tòa đã thể hiện cái lý của Trung Quốc có vấn đề. Một nước nhỏ kiện, lý do gì ông không tham gia, trong khi đây là một biện pháp giải quyết hòa bình. Như thế hình ảnh của Trung Quốc trước dư luận sẽ không đẹp chút nào. Đấy là bài rất khôn ngoan của Philippines trong hoàn cảnh mọi giải pháp ngoại giao đã thất bại, và nói như ngoại trưởng của nước này, Rosario, “sự kiên nhẫn đã cạn kiệt”.
Tất nhiên, câu chuyện sẽ dẫn tới vấn đề Trung Quốc trả đũa như họ từng làm thông qua con đường kinh tế và gây thiệt hại không nhỏ cho Philippines. Nhưng như Tổng thống Philippines Aquino đã nói, họ vô cùng quyết liệt, họ không đánh đổi vấn đề kinh tế để nhân nhượng về chủ quyền. Và đương nhiên Trung Quốc hiểu rằng đây là một hòn đá tảng, một đối thủ không dễ nuốt.
- Vụ kiện của Philippines sẽ đem lại bài học gì cho ASEAN và Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp ở biển Đông?
- Gần như mọi quốc gia trên thế giới đều có tâm lý e ngại Trung Quốc, không biết Trung Quốc nghĩ gì bởi Trung Quốc luôn nói một đằng, làm một nẻo. Từ năm 2009 tới nay, đối với Việt Nam, ASEAN và các nước khác, Trung Quốc luôn nói tới hòa bình hữu nghị, hợp tác lâu dài, không muốn làm phức tạp thêm tình hình… nhưng bản thân Trung Quốc luôn làm phức tạp thêm tình hình. Nào là cắt dây cáp, mời thầu dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đơn phương đưa các lệnh đánh bắt cá…
Giống như chuỗi domino, mọi người sẽ nghĩ đến khả năng, nếu Philippines làm vậy, có thể Việt Nam, Malaysia cũng sẽ làm. Rõ ràng tuyên bố đường chữ U vi phạm UNCLOS thì bất cứ nước nào là thành viên công ước cũng có thể làm. Chẳng hạn như Canada, ở rất xa Biển Đông, có thể kiện lên tòa trọng tài rằng Trung Quốc vi phạm. Nhưng Canada có làm thế không khi họ phải tính tới lợi ích của họ?
Câu chuyện này là một thách thức cho ASEAN, cho thấy sự đoàn kết, cơ chế hợp tác của ASEAN thực tế là lỏng lẻo. Tôi nghĩ rằng, tới đây, cả khối sẽ phải nhìn lại cơ chế đó đã đủ để bảo vệ các thành viên của mình hay chưa? Có thể, nó sẽ thúc đẩy ASEAN cùng ngồi lại với nhau tìm ra một cơ chế hữu hiệu, hoàn hảo hơn.
Còn đối vớiViệt Nam, Bộ Ngoại giao đã lên tiếng về vụ việc. Cá nhân tôi cho rằng, chúng ta phải thể hiện quan điểm rõ ràng, mạnh mẽ trong vụ việc này vì những vấn đề mà Philippines phản đối cũng là việc chúng ta đang phản đối, lợi ích mà nước này đang bảo vệ cũng chính là lợi ích của chúng ta.
Theo VNE
Yêu sách của Trung Quốc thành tâm điểm Hội nghị biển Đông
Tại Hội thảo Biển Đông, GS Tô Hạo thừa nhận nhiều quốc gia đã đưa ra những yêu sách sai lầm tại biển Đông.
Với 9 phiên trình bày, 1 phiên kết luận, cùng với thời gian thảo luận, ba ngày của Hội thảo Quốc tế Biển Đông lần thứ 4 dường như vẫn chưa đủ cho các đại biểu bày tỏ hết được các ý kiến của mình về vấn đề liên quan đến Biển Đông.
Bất chấp nỗ lực của BTC "ăn gian" nửa tiếng giờ nghỉ ăn trưa, và kéo dài phiên làm việc buổi chiều thêm gần một tiếng, mỗi phiên đều kết thúc khi vẫn còn hàng loạt cánh tay giơ lên đòi đặt thêm câu hỏi, hay đòi quyền lên tiếng.
Không chỉ những người tham dự hội thảo này, trong đó có người viết, mà chắc độc giả cũng hoàn toàn hiểu rõ lý do của sự "sôi nổi" khác thường này.
Vẫn còn nguyên đó những yêu sách vô lý, trái ngược với luật pháp quốc tế, như yêu sách "đường lưỡi bò" của Trung Quốc. Những hành động gây căng thẳng, đe dọa hòa bình khu vực, như các hành động vừa qua của Trung Quốc đối với các vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia ven biển khác, vẫn có nguy cơ tái diễn.
Trong khi đó, cộng đồng quốc tế vẫn chưa có hành động hữu hiệu để ngăn chặn. Còn lập trường của ASEAN về vấn đề biển Đông vẫn còn những khác biệt, và việc tìm kiếm giải pháp, như xây dựng lòng tin, thực hiện nghiêm chỉnh DOC, tuân thủ luật pháp quốc tế liên quan, hay xây dựng COC (Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông), dường như vẫn còn quá xa vời.
So với 3 hội thảo trước, hội thảo này đã có những tiến bộ trông thấy. Thứ nhất, thời gian dành cho việc chất vấn, hay trao đổi ý kiến, giữa các đại biểu từ nhiều quốc tịch khác nhau, đã tăng lên khá nhiều. Thứ hai, các học giả tranh luận với nhau một cách thuần túy khoa học, thẳng thắn, và không né tránh những vấn đề được cho là nhạy cảm nhất.
Các yêu sách trên biển Đông luôn thu hút rất lớn sự quan tâm quan tâm của các nhà nghiên cứu từ nhiều quốc gia. (Ảnh: Peopledaily)
Yêu sách "đường lưỡi bò" và phản ứng của giới học giả
Yêu sách "đường lưỡi bò" của Trung Quốc và chính sách tái cân bằng quyền lực của Mỹ tại khu vực châu Á vẫn là trọng tâm của các cuộc tranh luận, như những hội thảo trước. Các yêu sách trên biển Đông, cũng như các hành động quyết đoán gần đây của Trung Quốc luôn thu hút rất lớn sự quan tâm của các nhà nghiên cứu từ nhiều quốc gia.
Một học giả từ Đại học Maine của Hoa Kỳ chỉ rõ tính hai mặt của Trung Quốc, khi cường quốc này, một mặt, kêu gọi sự hợp tác trên biển Đông, nhưng, mặt khác, lại vẫn duy trì yêu sách "đường lưỡi bò", chiếm gần 80% biển Đông, lấn sâu vào cả vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia ven biển khác, và tuyên bố chủ quyền không thể tranh cãi trên vùng biển này.
"Nếu cứ như vậy, thì làm sao có vùng biển để mà hợp tác phát triển chung được?", vị học giả này đặt vấn đề.
Học giả Bonie Glaser của Hoa Kỳ cho rằng tất cả các quốc gia đều cần phải tôn trọng lợi ích của Trung Quốc trên Biển Đông, với điều kiện lợi ích của các quốc gia khác, dù lớn hay nhỏ, trên khu vực biển này cũng cần phải được tôn trọng.
Tướng Daniel Schaeffer từ Pháp tỏ ra kiên quyết hơn trong quan điểm nhất quán rằng Trung Quốc cần phải dũng cảm từ bỏ yêu sách đường lưỡi bò. Ông cho rằng, đó là giải pháp duy nhất có thể giúp đem lại hòa bình, an ninh và ổn định trên Biển Đông được.
Trong khi đó, học giả Yann Huei Song từ Đài Loan lại có cho rằng, mặc dù đường lưỡi bò thể hiện tham vọng chính trị nhiều hơn là luật pháp, nhưng việc Trung Quốc đưa ra bản đồ có hình đường lưỡi bò năm 2009 cho thấy tính kiên định của quốc gia này trong việc đeo đuổi yêu sách này, cũng như tính nghiêm túc trong việc tìm kiếm các lập luận pháp lý để giải thích cho thế giới.
Đáp lại ý kiến đó, học giả Nguyễn Thị Lan Anh cho rằng cộng đồng quốc tế vẫn đang chờ đợi Trung Quốc giải thích một cách rõ ràng về yêu sách này. Trong bài tham luận của mình, TS Lan Anh cũng đã giải thích cặn kẽ vì sao cái gọi là "quyền lịch sử", mà Trung Quốc vẫn dùng để biện minh cho yêu sách đường lưỡi bò, đã bị Công ước Luật biển "cất nó vào lịch sử".
"Vì sự lỗi thời của nó trước sự phát triển không ngừng của luật biển quốc tế", bà kết luận.
Trả lời câu hỏi của một phóng viên Việt Nam liên quan tới việc các nhà khoa học quốc tế chỉ trích yêu sách đường lưỡi bò của Trung Quốc, GS Tô Hạo từ Trung Quốc đã lặp lại lời giải thích của chính ông tại một hội thảo do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Hoa Kỳ (CSIS) tổ chức cách đây một năm rưỡi, rằng đường lưỡi bò là một di sản từ quá khứ.
"Nó không được bắt đầu từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mà được tiếp nối từ chính quyền Tưởng Giới Thạch trước đó", ông Tô Hạo nói.
Tuy nhiên, trong bài tham luận của mình tại hội thảo, GS Tô Hạo cũng thừa nhận nhiều quốc gia đã đưa ra những yêu sách sai lầm tại biển Đông. Liệu vị giáo sư khả kính này có hàm ý thừa nhận rằng Trung Quốc có những sai lầm hay không - vẫn là một câu hỏi đối với những người tham dự hội thảo.
GS Robert Beckman từ Trung tâm Luật Quốc tế, ĐHQG Singapore, trong bài tham luận rất sâu sắc của mình, đã chỉ rõ rằng hầu hết các hình thái địa chất trên Biển Đông đều chỉ là các đá nửa nổi nửa chìm, và như vậy, chúng không thể có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa xung quanh được. Ông cũng nhắc lại rằng, một số tuyên bố của Trung Quốc trước Liên Hợp Quốc lại khẳng định tất cả các hình thái địa chất trên biển Đông có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
GS Beckman cũng vạch rõ cái "tiêu chuẩn kép" trong lập trường của Trung Quốc, khi, một mặt, họ tuyên bố các hình thái địa chất trên biển Đông này đáp ứng định nghĩa về đảo theo điều 121 Công ước luật biển, nhưng, mặt khác, lại khẳng định Okinotorishima (một đảo đá tranh chấp với Nhật Bản) mặc dù khá tương tự với các hình thái địa chất thuộc Hoàng Sa - Trường sa, lại chỉ là đá, cũng theo điều này, nhưng khác khoản.
Khi GS Tô Hạo thanh minh rằng yêu sách này của Trung Quốc đã xuất hiện trước Công ước Luật biển khá lâu, và vì thế không thể áp dụng công ước trong trường hợp này, GS Beckman đã tiếp tục khẳng định rằng, một khi đã tự nguyện tham gia và trở thành một thành viên của Công ước, Trung Quốc mặc nhiên có nghĩa vụ phải tôn trọng các quy định trong Công ước.
"Điều đó có nghĩa là Trung Quốc phải tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của các quốc gia ven biển trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ, chứ không thể đưa ra những yêu sách đi ngược lại với Công ước như vậy", GS Beckman nói.
Lập liên minh kiềm chế các hành động sai trái
Việc thế giới sẽ đứng trước nguy cơ bùng phát của những cuộc chiến tranh thế giới mới, mà hậu quả của nó rất thảm khốc, do xu thế quân sự hóa của các quốc gia trong khu vực, dẫn đến một cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực, cũng là một mối quan tâm khác tại hội thảo này.
Lợi ích và sự tham gia của các quốc gia bên ngoài khu vực biển Đông như Nhật, Mỹ, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nga, Úc...vào vấn đề biển Đông, được nhiều học giả cho rằng sẽ mở ra một lối thoát cho nguy cơ bùng phát chiến tranh.
Và xu hướng liên minh trong việc kiềm chế các hành động vượt quá qui định của luật pháp quốc tế đặc biệt được nhấn mạnh bởi các học giả từ các quốc gia có những căng thẳng trên biển với Trung Quốc, trong thời gian gần đây.
Tướng Kaneda của Nhật Bản lại nêu ra mối quan ngại về những hành động quá đáng của Trung Quốc. Vị tướng này đã nêu ra ý tưởng cần thành lập những liên minh để kiềm chế các hành động này.
GS De Castro từ Philippines khẳng định thêm rằng không phải ngẫu nhiên mà xuất hiện nhu cầu thành lập các liên minh. Theo ông, những quốc gia nhỏ bé đơn lẻ cảm thấy bị đe dọa trước một cường quốc nào đó, và họ tự nhiên có xu hướng liên kết lại với nhau để ngăn chặn sự đe dọa.
Tuy nhiên, cũng theo vị học giả đến từ Philippines, những liên minh này không nhằm đe dọa, hay đối đầu, với Trung Quốc, mà chỉ nhằm mục đích kiềm chế những hành động sai trái, quá đáng từ phía Trung Quốc.
Các học giả từ Hoa Kỳ cũng cho rằng Hoa Kỳ cũng không muốn đối đầu với Trung Quốc, mà chỉ muốn kéo Trung Quốc trở lại gần hơn với cộng đồng quốc tế, và mong muốn Trung Quốc trở thành một quốc gia thực sự có trách nhiệm.
Nỗi lo và hi vọng
Hội thảo đã kết thúc, cùng với niềm vui được gặp lại bạn cũ, được kết giao với bạn mới, cũng như niềm phấn khích khi có cơ hội trao đổi một cách thẳng thắn và khách quan về mối quan ngại chung là tranh chấp Biển Đông. Nhưng những nỗi lo vẫn còn nguyên đó.
Mặc dù vậy, người viết vẫn cảm thấy có những tia hy vọng, ít nhất là tới kỳ hội thảo lần thứ 5 tại Hà Nội. Đó là việc cố gắng giữ yên nguyên trạng, không làm phức tạp thêm tình hình, như lời GS Tô Hạo từ Trung Quốc. Hay hơn thế nữa là câu nói của một học giả đến từ Mỹ với một học giả đến từ Pháp - hai quốc gia đã gây ra những trải nghiệm đau buồn với khu vực này, tuy là trên đất liền.
TS Mark Valencia đã nói với Tướng Daniel Schaeffer: "Nhân dân ở khu vực này đã chịu rất nhiều đau khổ rồi, những đau khổ đã do đất nước của ông, đất nước của tôi gây ra cho họ. Và chúng ta không được phép đẩy họ vào những đau khổ mới nữa."
Người viết tin rằng, không chỉ hai vị học giả nói trên, hay đa số các học giả tham dự hội thảo, mà cộng đồng quốc tế sẽ tìm mọi biện pháp để ngăn cho khu vực này khỏi nguy cơ bị đẩy vào "những đau khổ mới", dù chúng có thể đến từ một hướng khác.
Theo Dantri
Việt Nam "đồng tình với quan điểm chung của ASEAN về Biển Đông" Trả lời phỏng vấn về kết quả của Hội nghị cấp cao ASEAN-21 và các hội nghị liên quan, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh cho biết, VN đồng tình với quan điểm chung của ASEAN về vấn đề Biển Đông. Xin Bộ trưởng cho biết trọng tâm của Hội nghị Cấp cao ASEAN-21 và các Cấp cao liên quan. Từ ngày...