Phía sau việc Trung Quốc bất ngờ “muốn” đàm phán COC?
Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc bất ngờ tuyên bố Bắc Kinh đang chờ đợi ký kết Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC), điều này là thông tin khá bất ngờ sau vụ Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép.
Theo tờ Channel News Asia, hôm 8/8, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị tuyên bố Bắc Kinh đang chờ đợi ký kết Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC), giúp kiểm soát và ngăn chặn căng thẳng leo thang tại vùng biển này.
Tuyên bố trên được ông Vương đưa ra bên lề cuộc họp Các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN được tổ chức tại Nay Pyi Taw, Myanmar. Trước đó, Bắc Kinh đã liên tiếp vấp phải sự chỉ trích làm chậm tiến trình thông qua COC.
Ông Vương lại cho rằng trước tiên, bản Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) vốn được các bên ký kết vào năm 2002 cần được thi hành một cách có hiệu quả và hiệu lực. Bộ trưởng Trung Quốc cũng đề xuất tăng cường mối quan hệ hợp tác hàng hải giữa Trung Quốc và ASEAN.
Tuy nhiên, diễn biến trước đó thì chính Trung Quốc là bên vi phạm, bỏ qua tuyên bố DOC (mà Trung Quốc là một bên tham gia), thậm chí gia tăng các hành động gây mất ổn định ở Biển Đông đồng thời trì hoãn đàm phán COC. Động thái này của Trung Quốc khiến cho không ít người ngỡ ngàng. Vậy đằng sau câu chuyện Trung Quốc bất ngờ thay đổi thái độ là gì?
PV Infonet đã có cuộc phỏng vấn TS Trần Công Trục, Nguyên Trưởng Ban Biên giới xung quanh động thái này.
TS Trần Công Trục: “Trung Quốc có thể dùng đây như một quân bài để họ tỏ ra thiện chí nhưng trong thực tế thì họ có thể dùng cái đó làm bình phong, lá chắn cho tất cả những hoạt động sai trái của họ trên Biển Đông”.
Thưa ông, vấn đề Biển Đông theo ông có được đặt ra trong cuộc họp cấp cao ASEAN với Hoa Kỳ và Trung Quốc này không?
Theo tôi được biết, trong cuộc họp cấp cao ASEAN với Hoa Kỳ và Trung Quốc, vấn đề Biển Đông sẽ được nêu ra, trong đó có yêu cầu các bên hành động cần tuân thủ Công ước Luật biển, không được làm thay đổi hiện trạng… Bên cạnh đó, Hội nghị ASEAN cũng sẽ đề cập đến xúc tiến việc tham vấn nội dung COC.
Vấn đề là chúng ta hãy chờ xem các ý kiến trong Hội nghị đó có đưa ra được nghị quyết về Biển Đông không và nghị quyết đó được cụ thể hóa đến mức độ nào; nguyện vọng của các nước sau sự kiện giàn khoan của Trung Quốc hạ đặt trái phép trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam sẽ được cụ thể hóa ra làm sao…
Theo tôi, có thể sẽ có những cụ thể hơn nữa chứ không chỉ dừng lại ở những tuyên bố có tính chất nguyên tắc như trước đây.
Sau khi Trung Quốc rút giàn khoan ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam có ý kiến cho rằng đây là lúc Biển Đông lặng sóng. Vậy quan điểm của ông như thế nào?
Tôi cho rằng mong muốn Biển Đông lặng sóng là nguyện vọng tha thiết không chỉ của các nước ASEAN mà còn là của dư luận yêu hòa bình trên toàn thế giới.
Nhưng vấn đề nó có “lặng sóng” hay không, thực chất hành động rút giàn khoan về là gì, chúng ta hãy nhìn vào chiến lược của Trung Quốc với yêu sách về đường lưỡi bò. Trên thực tế, họ đã cố tình làm mọi cách để có thể hiện thực hóa yêu sách đó. Cho nên, đây chỉ là những động thái mang tính chất tình thế.
Có thể có khả năng do thời tiết như Trung Quốc từng nói nhưng có nhiều khả năng cho rằng đây là thành quả của một cuộc đấu tranh, mà Trung Quốc không thể nào làm ngơ. Và tôi nghiêng nhiều hơn về sức mạnh đấu tranh đó.
Video đang HOT
Nếu như Trung Quốc càng tiếp tục thì chắc chắn họ càng bị cô lập. Càng ngày bản chất của họ càng bị phơi bày trên dư luận quốc tế và càng ngày họ càng bị cô lập và sẽ đẩy Việt Nam và một số nước trong khu vực sẽ có những bước đi để bảo vệ lợi ích của mình.
Vậy thì rõ ràng Trung Quốc phải nghĩ lại và đặc biệt nếu như họ tiếp tục thì những hội nghị tiếp theo của ASEAN chắc chắn không thể làm ngơ cho hành động đó của Trung Quốc cho nên Trung Quốc quyết định rút giàn khoan sớm để tính những bước đi mới của mình.
Nói một cách bóng gió, hành động rút giàn khoan là một sự im lặng trước một cơn bão chứ không phải một sự im lặng lâu dài và biểu hiện của những cơn bão đó là Trung Quốc đang huy động 9.000 tàu đánh cá tràn vào Biển Đông với những hướng dẫn bằng vệ tinh rất hiện đại. Đây là một biện pháp cực kỳ nguy hiểm, là hành động cướp bóc tài nguyên trắng trợn mà đối phó cực kỳ khó khăn.
Hiện nay, Trung Quốc đang rục rịch đóng thêm giàn khoan rồi di chuyển xuống Biển Đông để tiếp tục thăm dò, khoan ở độ sâu 3.000 mét. Rồi vần còn đó Gạc Ma với tất cả những công trình được xây dựng và đường băng càng ngày càng được củng cố hơn nữa, lớn hơn nữa.
Tất cả những cái đó không phải biểu hiện cho sự im lặng như tờ như chúng ta nghĩ mà đấy là dấu hiện của những cơn bão mà chúng ta phải lường trước rằng nó còn nguy hiểm hơn thời gian vừa rồi.
Như vậy là ở Hội nghị này theo ông chúng ta vẫn nên tiếp tục lên án mạnh mẽ “yêu sách đường lưỡi bò” phi lý?
Đương nhiên, không chỉ ở Hội nghị mà chúng ta còn tiếp tục cuộc đấu tranh và chúng ta không bao giờ chấp nhận con đường phi lý này. Nếu muốn giải quyết vấn đề Biển Đông thì yêu sách về đường lưỡi bò phải được bãi bỏ và phải quay lại các tiêu chuẩn về Công ước Luật biển trong việc đưa ra hướng giải quyết các vấn đề mà các bên có thể ngồi lại với nhau.
Còn vấn đề chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì rõ ràng Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam và chúng ta cần tiếp tục đấu tranh bảo vệ bằng được chủ quyền đó. Đối với quần đảo Hoàng Sa, chúng ta không nên bỏ qua bất kỳ một động thái nào của Trung Quốc đối với quần đảo này. Bởi, nếu chúng ta im lặng là rơi vào tình trạng pháp lý mặc nhiên thừa nhận. Còn đối với quần đảo Trường Sa chúng ta phải tiếp tục đấu tranh, các động thái Trung Quốc mở rộng củng cố là điều phi lý.
Các nước ASEAN cần yêu cầu Trung Quốc xóa bỏ đường lưỡi bò phi lý.
Ông có nhận định gì khi Trung Quốc bất ngờ đề xuất đẩy mạnh đàm phán COC? Ông có nghĩ, họ sẽ lại tiếp tục bước qua như đã làm với DOC, thời gian vừa qua?
COC hay DOC thường là tuyên bố về thái độ của các bên, và thường có tính chất chính trị nhiều. Người ta hi vọng COC có thể trở thành một Bộ quy tắc ứng xử nhưng nếu đã có bộ quy tắc có nghĩa là đã thiết lập cơ chế trong việc giải quyết các tranh chấp. Giải quyết ở đâu, phạm vi như thế nào là cần phải xử lý chứ không phải một cách chung chung toàn bộ Biển Đông được.
Mặt khác, nó cũng mang tính chất khu vực giữa ASEAN với Trung Quốc chứ không mang tính chất toàn cầu. Công ước Luật biển năm 1982 với tất cả định chế của nó là mang tính toàn cầu và các nước thành viên phải dùng nó để giải quyết một cách hòa bình tất cả những mâu thuẫn, tranh chấp. Những thành viên nào không chấp hành chúng ta phải có ý kiến để bảo vệ thành quả đó. Đây là chuyện mà chúng ta phải làm và đó mới là cái cơ bản.
DOC cũng chỉ là một tuyên bố mang tính chất chính trị và nguyên tắc. Và cuối cùng thì Trung Quốc không thi hành cái đó mặc dù chúng ta cố gắng kêu gọi. Còn COC đến lúc nào có thể ký được với nhau là một điều hết sức xa vời. Như vậy có thể là lúc này lúc nọ, Trung Quốc có thể dùng đây như một quân bài để họ tỏ ra thiện chí nhưng trong thực tế thì họ có thể dùng cái đó làm bình phong, lá chắn cho tất cả những hoạt động sai trái của họ trên Biển Đông.
Xin cảm ơn ông!
Theo_Đời Sống Pháp Luật
Công hàm 1958 và vấn đề chủ quyền ở Hoàng Sa-Trường Sa
TS Trần Công Trục: "Trung Quốc đã cố tình vận dụng sai Công ước luật biển 1982 để ngụy biện cho hành động sai trái của mình".
LTS: Biện minh cho hành động sai trái khi hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, phía Trung Quốc cho rằng đó là hoạt động bình thường trong vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc đang chiếm đóng. Ngoài ra, phía Trung Quốc lập luận rằng, với tuyên bố của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa Phạm Văn Đồng năm 1958, Việt Nam đã từ bỏ quyền của mình đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Luật pháp quốc tế có thể rút ra từ đó kết luận gì về pháp lý? Sự thật về "cái gọi là chủ quyền "của Trung Quốc ở Hoàng Sa-Việt Nam là như thế nào?
Nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân, một chuyên gia về lịch sử Trung Quốc cho biết, bắt đầu từ Nhà Hán (203TCN 220 ), Trung Quốc đã có những bộ chính sử do một cơ quan chuyên môn của triều đình biên soạn và công việc này được suy trì cho đến hết thời Nhà Thanh. Tức là mỗi triều đại Phong Kiến ở Trung Quốc đều có những bộ sử riêng như Hán sử, Đường sử, Tống sử, Minh sử.v.v... Một vùng đất thuộc lãnh thổ của Trung Quốc thì phải được biên chép trong "địa lý chí" thuộc các bộ chính sử. Đó là cơ sở để xác nhận sự thiết lập hành chính hoặc đã quản lý. Thế nhưng trong địa lý chí của các bộ chính sử của Trung Quốc đều không có ghi chép về Hoàng Sa và Trường Sa.
Ông Phạm Hoàng Quân
Trung Quốc là đất nước có truyền thống về sử hoá lâu đời nhất thế giới nên tư liệu lịch sử nói chung của Trung Quốc rất đồ sộ và tư liệu lịch sử liên quan đến Biển Đông cũng rất nhiều. Và, tất cả các ghi chép của "địa phương chí" trong các bộ chính sử của Trung Quốc về lãnh thổ đều thống nhất thừa nhận vùng đất xa nhất của họ ở cực nam là huyện Nhai, của phủ Huỳnh Châu, đảo Hải Nam.
"Từ đời Hán đến đời Thanh đều có những bộ chính sử của triều đại, các mục địa lý chí chưa từng biên chép gì về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đó là điểm để người ta nhận rằng Trung Quốc chưa từng xem nó thuộc về phần đất của họ. Các phần địa lý chí đều có mục xác nhận các đơn vị hành chính đến Huyện Nhai của phủ Huỳnh Châu, nằm trong phạm vi đảo Hải Nam, không vượt qua đảo Hải Nam. Những tài liệu chỉ rõ những lời tâu, lời chỉ dụ của Hoàng đế hoặc những tấu sớ của các quan cũng thừa nhận đất của Trung Quốc đến Huyện Nhai, những vùng biển phía ngoài là họ không quản lý được vì đó là của những nước khác, vùng biển chung quốc tế. Tức là lúc đó họ không nói hẳn là của ai nhưng họ không thừa nhận là của họ." - ông Quân khẳng định.
Chỉ đến năm 1951, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đề cập về chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa. Ý định ấy kèm theo việc chiếm đóng thực tế một bộ phận vào năm 1956 và toàn bộ quần đảo này năm 1974. Tháng Giêng năm 1974, lực lượng vũ trang Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa. Ngay khi đó, Chính phủ Nam Việt Nam đã đưa ra lời phản đối lên Liên hợp quốc, công bố sách trắng về các quần đảo và lên án mạnh mẽ chống lại các hành động bất hợp pháp của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Chính quyền Sài Gòn đã sử dụng diễn đàn tại khóa hợp thứ hai của Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc về Luật biển tại Caracas năm 1974 để khẳng định lại các quyền của mình đối với hai quần đảo này. Trong năm 1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam nhắc lại rằng, "chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là những vấn đề thiêng liêng đối với mỗi dân tộc".
Như vậy, hai chính phủ khẳng định mình là đại diện cho Nam Việt Nam (được trao quyền quản lý lãnh thổ hai quần đảo) đã có chung một thái độ về vấn đề này, không làm đứt mạch chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo. Tuy nhiên, Trung Quốc lập luận rằng đã có sự từ bỏ danh nghĩa chủ quyền từ phía Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Đó là tuyên bố của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ công hòa, ông Phạm Văn Đồng, ngày 14 tháng 9 năm 1958. Công hàm của ông Phạm Văn Đồng nói như sau: "Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng Lí rõ, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ghi nhận và tán thành lời tuyên bố ngày 4.9.1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tôn trọng quyết định đó và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trên mặt bể."
Ông Đinh Kim Phúc
Có thể thấy rằng, tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng chỉ có một nghĩa hẹp là công nhận bề rộng lãnh hải của Trung Quốc. Do vậy, thật không đúng khi lập luận rằng, Việt Nam đã "khẳng định lại sự công nhận của họ đối với yêu sách của Trung Quốc" đối với các quần đảo. Quan trọng hơn, ông Đinh Kim Phúc, giảng viên khoa Đông Nam Á học, Đại học Mở TP.HCM cho rằng: "Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cũng như Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay chưa bao giờ lên tiếng phủ nhận hoặc ra Nghị quyết từ bỏ chủ quyền của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa."
Hơn nữa, trong chiến tranh, vì lợi ích quân sự chung, bên này hay bên kia có thể sử dụng lãnh thổ láng giềng hay dàn xếp lãnh thổ tạm thời. Và luật pháp quốc tế không thể rút ra từ những việc như vậy các kết luận về tính liên tục của danh nghĩa pháp lý.
Những năm sau 1975, Trung Quốc tiếp tục duy trì việc chiếm đóng bằng quân sự trên toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Trong khi đó, Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ quyền của mình đối với toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Đó là những khẳng định liên tục các quyền của Nhà nước phong kiến Việt Nam từ xa xưa, sau đó là của Pháp thay mặt cho nước Việt Nam thuộc địa và đã có sự chiếm đóng thật sự hai quần đảo.
Và liên tục từ đó đến nay, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Theo công pháp quốc tế, việc sở hữu một lãnh thổ không chấm dứt chỉ vì mất đi sự chiếm giữ vật chất. Nói cách khác, sự gián đoạn các biểu hiện vật chất tự nó không làm gián đoạn chủ quyền nếu như không có ý định từ bỏ lãnh thổ đó một cách rõ ràng.
Bức Công hàm ngày 14-9-1958 của Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký
Như vậy, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử - pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa. Việt Nam là quốc gia duy nhất đã chiếm hữu, quản lý hai quần đảo một cách liên tục, hòa bình và phù hợp với các quy định luật pháp quốc tế. Tuy vậy, trong những năm gần đây, để hỗ trợ yêu sách chủ quyền phi lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của mình, Trung Quốc đã và đang tiến hành các hoạt động củng cố yêu sách chủ quyền cả bằng hoạt động lập pháp và trên thực tế như nâng cấp Hải Nam thành tỉnh thứ 30 của nước này, trong đó bao gồm cả Hoàng Sa, Trường Sa. Đặc biệt, năm 2007, Quốc vụ viện Trung Quốc đã phê chuẩn việc thành lập thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa, thuộc tỉnh Hải Nam, trực tiếp quản lý cả quần đảo Hoàng Sa và Trường của Việt Nam.
Rõ ràng, Trung Quốc đã dùng vũ lực để chiếm đóng trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bằng những cuộc tấn công quân sự vào năm 1956 và 1974. Nhưng sự chiếm đóng này không thể chuyển hóa thành một danh nghĩa pháp lý. Pháp luật quốc tế hiện đại nghiêm cấm sử dụng vũ lực chống lại toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia. Cụ thể, Điều 2, khoản 4 của Hiến chương Liên hợp quốc nêu rõ: "lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với các quy định của Hiến chương. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng đe dọa hay sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe dọa hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp".
Bà Monique Chemillier Gendreau: "Trung Quốc không hề có giấy tờ chứng thực lịch sử, đã dùng vũ lực để chiếm đóng Hoàng Sa. Với quần đảo Trường Sa, chính quyền nước này cũng không có quyền gì mà chỉ chiếm bằng vũ lực."
Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu nhấn mạnh, việc chiếm đóng bằng vũ lực không thể là cơ sở của một quyền. "Trung Quốc không hề có giấy tờ chứng thực lịch sử, đã dùng vũ lực để chiếm đóng Hoàng Sa. Với quần đảo Trường Sa, chính quyền nước này cũng không có quyền gì mà chỉ chiếm bằng vũ lực. Điều này không thể được xem là một quyền theo luật pháp quốc tế. Tôi đã nghiên cứu nhưng chưa tìm được những giấy tờ nào về sự có mặt hoặc quản lý thực sự của Trung Quốc. Thậm chí trong những cuộc thương lượng, họ vẫn không nắm rõ vấn đề, nhầm lẫn. Họ chủ yếu dựa vào vũ lực."
Như vậy, tất cả các hành động nhằm củng cố quyền của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa đề được xem là vô giá trị. Không có chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa, không có chủ quyền ở đảo Tri Tôn, Trung Quốc không thể vận dụng Công ước của Liên Hợp quốc năm 1982 để xác định vùng biển thuộc quyền đảo Hoàng Sa để xác lập chủ quyền và quyền chủ quyền của Trung Quốc đối với những vùng biển đó. Chính vì vậy ngụy biện khi cho rằng: "vị trí đặt giàn khoan Hải dương 981" cách đảo Tri Tôn 17 hải lý là trong vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa mà họ đang chiếm đóng là không có cơ sở pháp lý. Nếu áp dụng Công ước của Liên Hợp quốc về luật Biển năm 1982 để tính cách vùng biển xung quan quần đảo Hoàng Sa chỉ có Việt Nam - quốc gia có chủ quyền hợp pháp quốc với quần đảo Hoàng Sa mới có chủ quyền và quyền chủ quyền đối với các vùng biển đó.
Hơn nữa, vị trí Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải dương 981 lại nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia Việt Nam, cách đường cơ sở được vạch ra theo Công ước luật biển 119 hải lý, tức là vào sâu trong vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam 81 hải lí. TS luật học Trần công Trục, Nguyên Trưởng ban Ban Biên giới Chính Phủ nhấn mạnh: "Căn cứ vào Công ước của Liên Hợp quốc về luật Biển năm 1982 để tính toán vị trí Trung đặt giàn khoan 981 thì thấy rằng vị trí này nằm rất sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Bởi vì vị trí này nằm cách đảo Lý Sơn, một điểm nằm trên đường cơ sở của VN 119 hải lý, cách ranh giới ngoài của vùng đặc quyền kinh tế là 80 hải lí và cách đảo Tri Tôn mà Trung Quốc gọi là Chúng Kiến là 18 hải lý nghĩa là nó nằm ngoài 12 hải lý. Căn cứ vào công ước luật biển thì quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam họ chiếm đóng trái phép là vô lý rồi nhưng ngay chuyện Trung Quốc tính đường cơ sở để tính các vùng biển là hoàn toàn áp dụng sai về luật biển để tạo ra vùng chồng lấn, tạo ra vùng tranh chấp thì đó là hoàn toàn vô lý. Chúng ta không thể nào chấp nhận cái quan điểm đó!"
TS Trần Công Trục: "Trung Quốc đã cố tình vận dụng sai Công ước luật biển 1982 để ngụy biện cho hành động sai trái của mình".
Như vậy, hành động hạ đặt trái phép giàn khoan Hải dương 981 vừa qua của Trung Quốc không có bất cứ cơ sở pháp lý nào. Nó chỉ là những bước đi tiếp theo những hoạt động sai trái của Trung Quốc như chiếm đóng nhóm đảo phía Đông của quần đảo Hoàng Sa vào năm 1956 và toàn bộ quần đảo này vào năm 1974, các hoạt động quân sự để chiếm đóng một số đảo ở quần đảo của Việt Nam vào năm tháng 3 năm 1988 cũng như yêu sách đường lưỡi bò phi lý và các hành động nhằm kiểm soát thực tế yêu sách này.
Hạ đặt giàn khoan hải dương 981 là một việc làm trái phép nối tiếp các việc làm sai trái của Trung Quốc ở Biển đông với một mưu đồ thống nhất nhằm biến Biển Đông thành ao nhà Trung Quốc. Với việc hạ đặt giàn khoan Hải dương 981 Trung Quốc đã xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán tại thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng các quy định của Công ước luật Biển 1982, vi phạm tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông năm 2002 (DOC) và các thỏa thuận liên quan giữa lãnh đạo cấp cao 2 nước cũng như thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển VN - TQ.
Trải qua lịch sử hàng ngàn năm chống ngoại xâm, trải qua các cuộc chiến tranh vệ quốc suốt chiều dài lịch sử, người Việt Nam hiểu hơn ai hết những đau thương, mất mát của chiến tranh cũng như những giá trị của hòa bình. Những ngày qua, mọi biện pháp hòa bình trong khuôn khổ Hiến chương Liên Hợp quốc đã được phía Việt Nam tận dụng để đấu tranh bảo vệ quyền chủ quyền và quyền tài phái của quốc gia trước hành động hạ đặt giàn khoan trái phép của Trung Quốc. Nhưng lịch sử dân tộc Việt Nam cũng chỉ ra rằng, chủ quyền lãnh thổ quốc gia là vấn đề thiêng liêng nhất đối với mỗi người dân Việt Nam và Việt Nam sẵn sằng sử dụng mọi biện pháp để bảo vệ lợi ích, chủ quyền của quốc gia./.
Lê Bình (theo VOV)
Theo_VietNamNet
Quốc tế lên án Trung Quốc gây căng thẳng ở Biển Đông Thượng nghị sỹ Mỹ John McCain đã ra tuyên bố chỉ trích Trung Quốc cố tình gây căng thẳng ở Biển Đông. Nhiều học giả Ý lên án hành động của Trung Quốc trên Biển Đông. Tàu Trung Quốc ép, xịt vòi rồng và đâm thẳng vào tàu Việt Nam - Ảnh cắt từ video Thượng nghị sỹ John McCain cho rằng quyết...