Phát triển giáo dục phù hợp với học sinh dân tộc
Theo ông Nguyễn Văn Thêm – Phó Giám đốc Sở GD&ĐT Bắc Giang: Ngành GD Bắc Giang đã có nhiều giải pháp để giữ vững phổ cập giáo dục chất lượng tốt ở vùng dân tộc thiểu số (DTTS).
Dự giờ tiết học thư viện của cán bộ, GV các huyện Việt Yên, Lục Ngạn, Sơn Động ở Bắc Giang. Ảnh: Sở GD&ĐT Bắc Giang
Phát triển đội ngũ nhà giáo người DTTS
Bắc Giang đã chú trọng phát triển quy mô mạng lưới trường lớp, nhất là vùng DTTS, miền núi. Hệ thống mạng lưới trường, lớp của tỉnh được duy trì, đáp ứng đầy đủ nhu cầu học tập của HS DTTS, HS vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn. Các huyện miền núi, nơi có nhiều đồng bào DTTS sinh sống đều có đầy đủ 3 cấp học với ít nhất 3 trường THPT và 1 trung tâm GD nghề nghiệp – GD thường xuyên. Toàn tỉnh có 5 trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT) và 4 trường phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT). Tỉ lệ đạt chuẩn quốc gia các trường PTDTNT đạt 100%, các trường PTDTBT đạt 75% .
Một giải pháp nữa đang được Bắc Giang triển khai, đó là tăng cường công tác quản lý GD dân tộc, đẩy mạnh phân cấp quản lý, giao quyền tự chủ về xây dựng chương trình, kế hoạch dạy học… Tập trung chỉ đạo các đơn vị thực hiện nghiêm kỷ cương, nền nếp trong mọi hoạt động GD. Nâng cao vai trò của GV chủ nhiệm trong việc quản lý, GD tư tưởng, đạo đức cho HS người DTTS.
Để bảo đảm chất lượng GD DTTS, Bắc Giang cũng quan tâm, đầu tư phát triển số lượng, chất lượng đội ngũ nhà giáo người DTTS; tạo điều kiện cho cán bộ quản lý, GV công tác tại khu vực miền núi, vùng DTTS và cán bộ GV các trường PTDTNT,
Video đang HOT
PTDTBT được bồi dưỡng theo chuẩn và nâng chuẩn. Tỷ lệ đạt chuẩn và trên chuẩn của cán bộ quản lý, GV ngày càng tăng, góp phần thực hiện tốt “Kế hoạch phát triển nguồn nhân lực và việc làm cho người DTTS tỉnh Bắc Giang, giai đoạn 2016 – 2020″ của UBND tỉnh Bắc Giang.
Một không gian đẹp cho HS tiểu học đọc sách ở Bắc Giang. – Ảnh: Sở GD&ĐT Bắc Giang
Đổi mới phương pháp GD
Bắc Giang cũng chú trọng nâng cao chất lượng GD trẻ em, HS DTTS và các trường PTDTNT, PTDTBT. Chỉ đạo các huyện miền núi thực hiện tốt việc chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ dân tộc trước khi vào lớp 1. Việc đổi mới phương pháp GD lấy trẻ làm trung tâm, triển khai chuyên đề “Giáo dục phát triển vận động phù hợp với trẻ dân tộc” ở bậc học mầm non.
Bậc tiểu học cũng đã triển khai tốt các biện pháp tăng cường tiếng Việt cho học sinh DTTS. Bậc trung học được củng cố vững chắc về chất lượng GD toàn diện và GD mũi nhọn. Sở GD&ĐT Bắc Giang cho biết đã chỉ đạo các nhà trường phát huy vai trò của GV chủ nhiệm, các tổ chức Đoàn, Đội, tổ… trong việc GD tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh DTTS. Chất lượng GD đạo đức HS DTTS có nhiều chuyển biến tích cực.
Hệ thống các trường PT DTNT, PT DTBT, các cơ sở GD miền núi, vùng khó khăn ở Bắc Giang xây dựng nội quy và thực hiện tốt nếp sống văn minh khu nội trú; xây dựng phong cách học tập của HS dân tộc nội trú. Sinh hoạt nội trú được tổ chức hàng tuần theo chủ đề. Các câu lạc bộ “Nói tiếng dân tộc” được duy trì, nhằm củng cố vốn ngôn ngữ DTTS và giới thiệu các phong tục, tập quán, các làn điệu dân ca, truyện dân gian các DTTS trên địa bàn. Việc hướng dẫn HS nội trú tự học được thực hiện sáng tạo.
Ông Nguyễn Văn Thêm cho biết: “Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục góp phần giữ vững kết quả phổ cập GD có chất lượng tốt ở vùng DTTS, miền núi trong những năm tiếp theo, Sở GD&ĐT Bắc Giang tiếp tục quan tâm duy trì hệ thống các trường PT DTNT, PT DTBT, các cơ sở GD miền núi, vùng khó khăn để đáp ứng nhu cầu học tập, nâng cao dân trí của vùng DTTS, miền núi.
Thực hiện tốt các cơ chế, chính sách phát triển GD ở miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số; nâng cao chất lượng GD các trường DTNT, DTBT, trường ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, nhằm thu hẹp khoảng cách về chất lượng GD giữa các vùng miền”.
Thanh Tuấn
Theo GDTĐ
Chuyển biến trong giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi
Trong những năm qua, hoạt động giáo dục và đào tạo (GD và T) vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS và MN) đã có những chuyển biến đáng kể.
Hệ thống giáo dục chuyên biệt bao gồm trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT), trường phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT), trường dự bị đại học được quan tâm đầu tư, xây dựng ngày càng khang trang, bảo đảm đủ điều kiện để từng bước nâng cao chất lượng dạy và học.
Giờ tin học của học sinh Trường phổ thông dân tộc nội trú Tây Nguyên, TP Buôn Ma Thuột (ác Lắc). Ảnh: HỒNG THỦY
Theo Bộ GD và T, hiện nay, hệ thống trường chuyên biệt ở vùng DTTS và MN đã và đang khẳng định được vai trò trong việc tạo nguồn đào tạo cán bộ, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực; huy động tối đa học sinh trong độ tuổi tới trường, giảm tỷ lệ học sinh bỏ học, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; nâng cao dân trí và phát triển nguồn nhân lực ở vùng DTTS và MN. Cả nước hiện có hơn 3.600 trường chuyên biệt vùng DTTS và MN, trong đó có 315 trường PTDTNT, hơn một nghìn trường PTDTBT và 2.273 trường phổ thông có từ 30 học sinh bán trú trở lên.
Chất lượng giáo dục của các trường ngày càng tăng qua từng năm học. Riêng hệ thống trường PTDTNT có tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT đạt 90%, có hơn 50% số học sinh tốt nghiệp THPT và thi đỗ vào đại học, cao đẳng. Tỷ lệ học sinh đến trường tăng cao, học sinh lưu ban, bỏ học ngày càng giảm. Ngành giáo dục đã triển khai dạy tiếng DTTS trong nhà trường tại 22 tỉnh, thành phố với sáu thứ tiếng, gồm: Mông, Chăm, Khmer, Gia Rai, Ba Na, Ê ê. Công tác xóa mù chữ, tăng cường tiếng Việt cho học sinh vùng đồng bào DTTS được chú trọng. Nhiều chính sách ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục vùng đồng bào DTTS, vùng điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa được ban hành đã quan tâm đến nhiều mặt và nhiều đối tượng như trẻ em, học sinh, sinh viên, giáo viên và cơ sở giáo dục... Nhiều địa phương có chính sách hỗ trợ học phí và chi phí học tập cho học sinh, sinh viên người DTTS như: Cao Bằng, iện Biên, Quảng Trị, Gia Lai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Khánh Hòa, Quảng Ngãi, Quảng Nam, ồng Nai, ác Nông... Các chế độ, chính sách đối với cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh, sinh viên là người DTTS được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định. Qua đó đã khuyến khích công tác dạy và học, tạo sự bình đẳng trong giáo dục, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
ác Lắc là tỉnh có 47 dân tộc anh em cùng chung sống, tỷ lệ học sinh DTTS chiếm hơn 30% trong toàn ngành giáo dục. Vì vậy, nâng cao chất lượng cho học sinh DTTS cũng như triển khai thực hiện chế độ chính sách là việc được ngành GD và T cùng các cấp chính quyền địa phương đặc biệt quan tâm. Giám đốc Sở GD và T tỉnh ác Lắc Phạm ăng Khoa cho biết, tỉnh đã tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các trường, đặc biệt đầu tư cho hệ thống trường PTDTNT. ến nay toàn tỉnh có 6 trong số 16 trường PTDTNT đạt chuẩn quốc gia (trong đó có năm trường PTDTNT cấp huyện và một trường PTDTNT cấp tỉnh). Còn tại Hà Giang, tỷ lệ học sinh người DTTS chiếm hơn 80% tổng số học sinh trong độ tuổi đến trường. Cơ sở vật chất, trường, lớp học ngày càng được đầu tư xây dựng, đáp ứng nhu cầu dạy và học, góp phần nâng tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường. Tỉnh Bình Thuận là địa phương tích cực, chủ động triển khai đưa các chính sách vào cuộc sống, huy động nguồn lực hỗ trợ cho các đối tượng được hưởng chính sách. ồng thời chỉ đạo các sở, ban, ngành liên quan hướng dẫn các cơ sở giáo dục nghiên cứu văn bản, rà soát các đối tượng được hưởng chế độ chính sách... nhờ vậy, chất lượng giáo dục được nâng lên.
Tuy nhiên, hiện nay, hệ thống trường chuyên biệt ở vùng DTTS và MN đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập như: Cơ sở vật chất nhiều trường chưa đạt mức tối thiểu theo quy định, trang thiết bị chưa được đầu tư đồng bộ; chất lượng và hiệu quả đào tạo chưa cao; đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục nhiều nơi còn bất cập, năng lực sư phạm, khả năng tổ chức hoạt động giáo dục của một bộ phận giáo viên còn hạn chế. Một số chính sách, chế độ đối với hệ thống trường chuyên biệt ở vùng DTTS và MN chưa phù hợp.
Theo Giám đốc Sở GD và T tỉnh Bình Thuận Phan oàn Thái, nhìn chung, chất lượng học tập của học sinh DTTS và MN thấp hơn mặt bằng của học sinh toàn tỉnh. Nguyên nhân là do đặc thù từng vùng miền và ảnh hưởng của điều kiện kinh tế gia đình, số lượng học sinh DTTS có nhu cầu học trung cấp nghề ngày càng ít. Ý thức học tập của các em chưa cao, bên cạnh đó phụ huynh ít quan tâm đến việc học tập của con em. ại diện Sở GD và T tỉnh An Giang cũng chỉ ra rằng, cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên thực hiện công việc tại các trường chuyên biệt có thời gian và khối lượng công việc nhiều hơn so với các trường bình thường nhưng vẫn chưa được hưởng thêm chế độ nào.
heo Bộ trưởng GD và T Phùng Xuân Nhạ, phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực các DTTS là một trong ba khâu đột phá chiến lược của đất nước. Tuy nhiên, công tác này đòi hỏi những cách tiếp cận mới, bảo đảm thiết thực và hiệu quả. Trong đó, chú ý điều chỉnh chương trình đào tạo cho học sinh vùng DTTS và MN; chính sách phân luồng, hướng nghiệp; đổi mới mô hình trường dân tộc nội trú, bán trú theo hướng tăng cường hòa nhập, nâng cao chất lượng tuyển sinh, chất lượng đào tạo; thay đổi hình thức hỗ trợ cho học sinh DTTS và MN phù hợp từng vùng miền... Thời gian tới, Bộ GD và T sẽ kiến nghị ban hành 11 chính sách mới và sửa đổi, bổ sung ba nhóm chính sách hiện hành nhằm tạo điều kiện cho GD và T vùng DTTS và MN phát triển thuận lợi và thực chất hơn.
QUỲNH NGUYỄN, THÙY DƯƠNG
Theo Nhân dân
Mô hình trường học bán trú giúp học sinh vùng cao yên tâm đến lớp Sau 4 năm thực hiện mô hình trường học bán trú tại 12/29 trường học, hàng trăm học sinh của huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, được hỗ trợ ăn, ở tại trường, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, kỹ năng giao tiếp, vốn từ tiếng Việt của học sinh vùng cao, vùng dân tộc thiểu số. Giờ ăn của các...