Phát hiện nhiều động vật quý hiếm ở Kẻ Gỗ
Quá trình đặt bẫy ảnh phục vụ hoạt động giám sát đa dạng sinh học, Khu Bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ ghi nhận nhiều loài động vật hoang dã, quý hiếm.
Nhằm theo dõi và bảo tồn sự đa dạng sinh học, Ban Quản lý Khu Bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ (Hà Tĩnh) phối hợp với các cơ quan chức năng triển khai một dự án lắp đặt 88 điểm bẫy ảnh khắp khu bảo tồn, ghi lại hình ảnh hoạt động của các loài động vật hoang dã.
Thông qua hệ thống bẫy ảnh ghi nhận được 19 loài thú, 13 loài chim và 1 loài bò sát. Trong đó có những loài quen thuộc như thỏ vằn, sóc má đào, khỉ mốc, dúi mốc, sóc đen, nai, lợn rừng; cùng những loài quý hiếm, ít gặp như cầy vòi hương, cầy mốc cua, mèo rừng, cheo cheo, cầy vòi mốc, chồn bạc má Bắc, cầy gấm, chồn họng vàng…
Cá thể cheo cheo.
Trong số các loài thú và loài chim được ghi nhận qua điểm bẫy ảnh nói trên, có nhiều cá thể nằm trong danh mục động vật rừng nguy cấp, quý hiếm thuộc nhóm IB và IIB, có trong Sách Đỏ Việt Nam và thế giới, nghiêm cấm việc săn bắt, khai thác, buôn bán trái phép và cần ưu tiên được bảo vệ, bảo tồn.
Khu Bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ nằm ở phía nam tỉnh Hà Tĩnh, cách thành phố Hà Tĩnh khoảng 15km, thuộc khu vực phía đông dãy Trường Sơn Bắc, có tổng diện tích hơn 44.000 ha và trải dài qua 3 huyện Cẩm Xuyên, Hương Khê, Kỳ Anh.
Đến nay trong phạm vi Khu Bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ ghi nhận 80 loài Thú, 298 loài Chim, 63 loài Bò sát và 33 loài Lưỡng cư, Côn trùng có 302 loài và Cá có 35 loài.
Trong số các loài thú, có đến 17 loài (chiếm 21%) thuộc nhóm nguy cấp, quý hiếm cần được bảo tồn đặc biệt, bao gồm chồn dơi, cu li lớn, khỉ mặt đỏ, khỉ đuôi lợn, khỉ mốc, voọc chà vá chân nâu, vượn má hung, gấu ngựa, gấu chó, rái cá thường, cầy mực, beo lửa, hổ, bò tót, sơn dương, tê tê vàng và sóc bay lớn.
Theo Ban Quản lý Khu Bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ, trong thời gian tới các cơ quan chức năng cần có những giải pháp và hỗ trợ nguồn kinh phí để triển khai công tác quản lý, bảo vệ, bảo tồn đa dạng sinh học trên lâm phần do Ban Quản lý Khu Bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ quản lý.
Một số hình ảnh về các cá thể động vật hoang dã quý hiếm tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ được ghi nhận qua bẫy ảnh:
Video đang HOT
Nhiều loài chim lần đầu được phát hiện.
Nai rừng.
Cá thể động vật tê tê.
Thỏ vằn.
Loài chim ghi nhận tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ.
Mèo rừng.
Chồn họng vàng.
Cá thể cheo cheo.
Lời đồn về con la mang thai: Sự thật và khoa học
Có nhiều tin đồn và quan niệm mê tín liên quan đến việc con la mang thai. Một trong số đó là quan niệm rằng con la mang thai là điềm xấu, và người ta thường giế.t những con la cái đang mang thai vì sợ hãi.
Nhưng liệu điều này có thực sự đúng? Hãy cùng tìm hiểu khoa học đằng sau những tin đồn này.
Từ xa xưa, con la đã được biết đến như một loài vật hiền lành, chăm chỉ và có sức chịu đựng phi thường. Tuy nhiên, bên cạnh những phẩm chất tốt đẹp, chúng cũng gắn liền với một số lời đồn tai tiếng, trong đó nổi bật nhất là lời đồn về việc con la mang thai sẽ mang lại xui xẻo.
Con la là kết quả của sự gia.o phố.i giữa ngựa và lừa. Chúng xuất hiện lần đầu tiên vào thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc, khoảng 2.400 đến 2.500 năm trước. Khi đó, vì số lượng la rất ít nên chúng được coi là động vật quý hiếm, chỉ được sử dụng bởi giới quý tộc để giải trí. Đến thời nhà Minh, la bắt đầu được nuôi với số lượng lớn để làm vật kéo.
Con la là loài lai giữa ngựa và lừa, do đó số lượng nhiễm sắc thể của chúng là lẻ (63), thay vì chẵn như các loài động vật bình thường (64 hoặc 62). Điều này khiến cho quá trình sinh sản của con la gặp nhiều khó khăn, dẫn đến tỷ lệ thụ thai và mang thai thành công rất thấp.
Là một loài động vật chuyên về sức kéo, con la đã có những đóng góp to lớn cho nhân loại từ thời cổ đại, đặc biệt là ở những khu vực có giao thông kém phát triển. Chúng hữu ích hơn cả ngựa và lừa và đã thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp. Mặc dù có cống hiến lớn cho nhân loại, nhưng cuộc sống của chúng vẫn rất tàn khốc vì chúng không phải là một loài riêng biệt mà chỉ là một tồn tại lai tạp.
Con la có hai loại: la ngựa và la lừa. La ngựa là con la được sinh ra từ sự gia.o phố.i giữa lừa đực và ngựa cái, trong khi la lừa là kết quả của ngựa đực và lừa cái. Có sự khác biệt lớn giữa hai giống la này, cả về thể lực lẫn ngoại hình.
Con la là loài động vật hiền lành, chăm chỉ và có sức chịu đựng phi thường. Chúng đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của nông nghiệp và giao thông vận tải.
La ngựa: Trông giống ngựa hơn và thừa hưởng những đặc điểm của ngựa. Chúng ăn rất nhiều, mạnh mẽ và có sức chịu đựng tuyệt vời. Tuy nhiên, chúng có tính cách hơi nóng nảy nhưng rất thông minh và có thể hiểu được ý người. La ngựa có thể được sử dụng trong khoảng 20 năm.
La lừa: Trông giống lừa hơn và thừa hưởng những đặc tính của lừa. Lượng thức ăn của chúng ở mức trung bình, sức chịu đựng mạnh và tính tình ngoan ngoãn hơn la ngựa. Tuy nhiên, chúng bướng bỉnh và không hiểu ý người. La lừa có thể được sử dụng trong khoảng 30 năm.
Người ta thường sử dụng con la để kéo xe, chở hàng. Khi chở hàng, con la có thể đi bộ khoảng 30 đến 40 km mỗi ngày mà tạo ra rất ít bụi, rất thích hợp cho việc vận chuyển.
Mặc dù con la có khả năng chịu tải và sức đề kháng của lừa cũng như sự nhanh nhẹn và khả năng chạy của ngựa, nhưng chúng không có khả năng sinh sản. Nguyên nhân chính là sự khác biệt về số lượng nhiễm sắc thể giữa ngựa (64 nhiễm sắc thể) và lừa (62 nhiễm sắc thể). Khi gia.o phố.i, con la có 63 nhiễm sắc thể, số lẻ này không thể ghép đôi bình thường, dẫn đến việc không thể trải qua quá trình phân bào bình thường và không có khả năng sinh sản.
Mặc dù không có khả năng sinh sản, nhưng hệ thống sinh sản của con la vẫn còn nguyên vẹn. Con la cái vẫn có chức năng sin.h dụ.c, có tử cung và có thể mang phôi. Tuy nhiên, con la đực không thể thụ thai cho con la cái nó không hình thành được tin.h trùn.g. Vì vậy, con la gia.o phố.i bình thường sẽ không thể sinh ra con cái.
Mặc dù con la không thể sinh sản khi gia.o phố.i với nhau, nhưng đã có một số trường hợp hiếm hoi được báo cáo về việc con la sinh con khi gia.o phố.i với ngựa đực hoặc lừa đực. Một số trường hợp như sau:
Năm 1916: DeChambre đã báo cáo trong "Biên niên sử về Khoa học và Công nghệ Chăn nuôi" của Đức rằng một con la cái đã sinh ra 5 chú ngựa con ở Boulogne, Pháp. Ba chú ngựa con được sinh ra từ việc gia.o phố.i với ngựa đực và hai chú lừa con từ việc gia.o phố.i với lừa đực. Những con ngựa con sinh ra từ ngựa đực có chức năng sinh sản, trong khi hai con lừa con được sinh ra từ lừa đực thì không.
Năm 1923: Tại Trường Cao đẳng Nông nghiệp Texas ở Hoa Kỳ, một con la cái gia.o phố.i với một con ngựa đực và sinh ra một chú ngựa con có ngoại hình không khác gì ngựa và có chức năng sinh sản.
Năm 1924: Ở Nam Phi, một con la cái gia.o phố.i với một con ngựa đực và sinh ra một con ngựa con, sau đó lại gia.o phố.i với một con ngựa đực khác và sinh ra một con ngựa con khác.
Những trường hợp này cho thấy con la cái có thể mang thai khi gia.o phố.i với ngựa đực hoặc lừa đực, do các nhiễm sắc thể trong cơ thể chúng hình thành các giao tử độc lập và kết hợp với giao tử của ngựa hoặc lừa.
Người xưa thường vin vào những điều bí ẩn để giải thích cho những hiện tượng mà họ không hiểu được. Do đó, việc con la mang thai - một sự kiện hiếm hoi và khó giải thích - được gán cho những lời đồn mang màu sắc mê tín dị đoan. Việc con la mang thai là một hiện tượng sinh học tự nhiên, không liên quan gì đến vận may hay xui xẻo.
Quan niệm rằng con la mang thai là điềm xấu và sẽ chế.t sau khi mang thai xuất phát từ sự thiếu hiểu biết của người xưa và sự mê tín thời phong kiến. Họ tin rằng con la không bao giờ có thai và coi việc con la mang thai là điều không may mắn. Để tránh điều xui xẻo, người ta thường giế.t những con la mang thai.
Con la là một loài động vật đặc biệt, thừa hưởng những ưu điểm của cả ngựa và lừa, nhưng lại không có khả năng sinh sản. Mặc dù có những đóng góp lớn cho nhân loại, cuộc sống của chúng vẫn gặp nhiều khó khăn và bi kịch. Quan niệm mê tín về con la mang thai là không chính xác và không có cơ sở khoa học. Chúng ta cần hiểu rõ hơn về loài vật này và đối xử tốt với chúng, thay vì tin vào những tin đồn vô căn cứ.
Loài cá có răng nanh dài tới nỗi không khép được miệng Theo các nhà nghiên cứu, những loài thủy quái dưới đáy đại dương được đán.h giá có ngoại hình ghê rợn, ám ảnh nhất hành tinh và hiếm khi con người có thể bắt gặp. Cá rắn lục là một trong số những thủy quái có ngoại hình ghê rợn nhất dưới đáy đại dương. Loài cá có các đặc điểm như miệng...