Phá sản ngân hàng yếu kém thế nào?
Trong dự thảo đề án tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016 – 2020 do Viện nghiên cứu kinh tế Trung ương (CIEM) chủ trì soạn thảo, việc tiếp tục tái cơ cấu ngành ngân hàng được xem là một nhiệm vụ trọng tâm.
Sau khi sáp nhập thành công vào SHB, thương hiệu Habubank đã biến mất khỏi thị trường mà không hề gây ảnh hưởng gì đến hệ thống, khách hàng…
Điều này được nhiều chuyên gia ủng hộ. Theo đó, việc lựa chọn phương thức cho ngân hàng yếu kém phá sản mà không ảnh hưởng đến hệ thống, khách hàng và nhà nước, thúc đẩy các ngân hàng tốt phát triển là vấn đề nhận được sự quan tâm nhiều nhất.
Phá sản không gây đổ vỡ hệ thống
Theo ông Nguyễn Phước Thanh – Phó Thống đốc NHNN, trong giai đoạn 2010 – 2015, ngành ngân hàng đã qua nhiều cuộc đại phẫu. Do vậy, từ năm 2016, các ngân hàng thương mại phải nâng cao năng lực tài chính, nhất là các ngân hàng quy mô vốn còn thấp. Đồng thời, tăng cường quản trị rủi ro để hạn chế nợ xấu. Điều quan trọng nhất các ngân hàng phải tăng thêm là vốn phải là “vốn sạch”, bởi nếu tăng bằng vốn ảo thì sớm muộn cũng gặp nhiều khó khăn.
Mặc dù tái cấu trúc giai đoạn 3 năm 2012 – 2015 đã hoàn tất, nhưng NHNN vẫn tiếp tục xử lý các TCTD yếu kém, sáp nhập sẽ tiếp tục diễn ra trong năm 2016. Nếu các NHTM yếu kém không tự khắc phục được cũng sẽ dẫn đến việc phá sản. Trước mắt, có thể cho phá sản các quỹ tín dụng, các Cty tài chính hoạt động yếu kém để thị trường quen dần, sau đó sẽ đến nhà băng nhỏ yếu kém – ông Thanh khẳng định.
VN có thể rút kinh nghiệm từ Mỹ, thiết lập một cơ chế và quy trình phá sản hợp lý. Thực tế, có những quan ngại là nếu cho phép phá sản, hệ thống ngân hàng có thể bị ảnh hưởng dây chuyền và người dân kéo đến rút tiền ồ ạt, dẫn đến việc đưa cả hệ thống vào khủng hoảng. Tuy nhiên, điều này sẽ không xảy ra nếu việc phá sản được lên kế hoạch chặt chẽ và hợp lý – Chuyên gia kiểm toán KPMG Lê Hữu Hòe khẳng định.
Người dân sẽ không kéo đến ngân hàng rút tiền ồ ạt nếu NHNN có thể thỏa thuận với một ngân hàng nào đó tiếp nhận khối lượng tiền gửi của ngân hàng phá sản và bảo lãnh khối lượng tiền gửi đó. Đồng thời, NHNN tìm cách thanh lý tài sản để có tiền mặt bù vào số tiền đã phải ứng ra hoặc đang bảo lãnh. Việc làm này không khác gì biện pháp mà hiện nay NHNN đang áp dụng khi tiếp quản 3 NHTM đã mua với giá 0 đồng.
Video đang HOT
Hiện tiền gửi tại các ngân hàng này không được NHNN bảo lãnh, nhưng người dân cảm thấy an tâm khi những ngân hàng này trở thành một ngân hàng của nhà nước. Vậy, khi VN cho phép ngân hàng phá sản, ngoài việc cơ quan bảo hiểm tiền gửi bồi thường cho người gửi tiền, việc NHNN bảo lãnh tiền gửi của người dân tại những ngân hàng bị NHNN đóng cửa sẽ làm họ an tâm và tránh được hiện tượng rút tiền ào ạt. Với những tiền đề này, đã đến lúc NHNN cần phải đẩy mạnh áp dụng Luật Phá sản các ngân hàng với các phương thức và một trình tự hợp lý, không gây đổ vỡ hệ thống…
Theo các chuyên gia tài chính, trong kinh doanh, mọi DN đều bình đẳng, các ngân hàng thương mại cũng là một DN, vì vậy việc kinh doanh thua lỗ dẫn đến chấm dứt hoạt động là chuyện rất bình thường. Lúc kinh tế khó khăn, hàng nghìn DN thua lỗ phá sản, còn nhiều ngân hàng lại báo cáo lãi hàng nghìn tỷ đồng. Nhưng khi các ngân hàng yếu kém, thua lỗ lại được nhà nước đứng ra bảo đảm tính thanh khoản là điều rất vô lý.
Kinh nghiệm từ Mỹ
Theo TS Nguyễn Trí Hiếu, việc phá sản của ngân hàng cũng là chuyện bình thường ở nhiều quốc gia khác. Nếu nhà nước muốn cứu thì hãy cứu hàng trăm nghìn DN khó khăn hiện nay, vì khi họ phá sản, hàng loạt người sẽ phải thất nghiệp. Cho nên, ngân hàng nào kinh doanh tốt thì phát triển, nếu không hiệu quả, không sáp nhập, thì mạnh dạn cho phá sản. Người dân cũng phải lựa chọn ngân hàng tốt, tạo được lòng tin, để gửi tài sản của mình vào đó.
TS Hiếu phân tích, việc đóng cửa một ngân hàng ở Mỹ được thực hiện với trình tự rất chuyên nghiệp, trật tự và an toàn cho hệ thống. Theo đó, một ngân hàng nếu được các cơ quan thanh tra, giám sát thẩm định là có khả năng phá sản thì các cơ quan quản lý như FDIC (Federal Deposit Insurance Corporation – Cty Bảo hiểm tiền gửi Liên bang) sẽ lên kế hoạch đóng cửa và thường tìm những ngân hàng khác có thể mua lại toàn bộ hay từng phần của ngân hàng sẽ bị đóng cửa, hoặc chính FDIC là cơ quan tiếp quản và thanh lý tài sản.
Việc đóng cửa được chuẩn bị trong bí mật tuyệt đối để tránh khách hàng kéo đến rút tiền ồ ạt và tránh thất thoát tài sản do cán bộ ngân hàng có thể biết trước hành động của FDIC.
Khi đóng cửa ngân hàng, một đội ngũ đồ sộ các nhân viên công lực của FDIC lập tức tiếp quản ngân hàng đó và tuyên bố sa thải hoặc bắt giữ các cán bộ cao cấp của ngân hàng có hành vi vi phạm. Cơ quan quản lý thường đóng cửa ngân hàng vào chiều thứ 6 và dùng 2 ngày cuối tuần để kiểm soát và thay đổi toàn bộ ngân hàng rồi mở cửa lại vào ngày thứ 2 sau đó. Các món tiền gửi được FDIC bảo hiểm (cho đến 250.000 USD) sẽ được thanh toán rất nhanh trong vòng vài ngày nếu khách hàng có yêu cầu. Những người có tiền gửi trên 250.000 USD sẽ phải chờ FDIC bán tài sản của ngân hàng bị đóng cửa.
Số tiền FDIC có từ thanh lý tài sản sẽ được thanh toán cho những đối tượng mà ngân hàng đã nợ theo một thứ tự ưu tiên, bao gồm trả lại FDIC số tiền mà FDIC đã trả cho khách hàng gửi tiền, trả thuế cho chính phủ (nếu nợ), tiền lương nợ nhân viên, các đối tác cung cấp phương tiện hoạt động kinh doanh của ngân hàng, các khách hàng gửi tiền trên mức được bảo hiểm, ngân hàng cho vay trên liên ngân hàng, các đối tác cho vay khác và cuối cùng là các cổ đông.
Với một trình tự phá sản trật tự và an toàn như vậy, Mỹ đã cho phá sản hàng trăm ngân hàng mỗi năm mà không hề gây khủng hoảng cho hệ thống. Ngược lại, hệ thống ngân hàng của Mỹ ngày càng mạnh mẽ và ổn định hơn.
Theo Diên đan doanh nghiêp
Tái cơ cấu kinh tế cần bắt đầu từ đâu?
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đề ra mức lãi suất 5% trong dự thảo kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế 2016-2020.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa công bố dự thảo Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 và đang lấy ý kiến rộng rãi từ công chúng. Theo dự thảo, có đến 10 nội dung hành động cụ thể, trong đó có mức lãi suất cho vay 5%. Thực ra, mức lãi suất 5% đã xuất hiện trên thị trường, nhưng đó là các gói cho vay ưu đãi lãi suất trong các lĩnh vực ưu tiên, hay mua nhà ở xã hội. Còn với những khoản vay đại trà, con số 5% thực sự quá lý tưởng. Nhưng liệu có khả thi?
Trên thực tế, dự báo kinh tế luôn là chủ đề rất khó. Cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), ông Alan Greenspan trong cuốn sách "The Age of Turbulence" năm 2007 đã nói rằng thế giới có thể cần đến mức lãi suất 2 con số để kiểm soát lạm phát trong tương lai gần. Thế nhưng, lãi suất trên thế giới lại gần với con số 0% trong phần lớn thời gian từ đó cho đến nay.
Dù rằng thực tế không phải lúc nào cũng diễn ra đúng như dự báo, nhưng việc Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra một mục tiêu cụ thể để hướng đến là điều cần thiết. Đó là thông tin hữu ích cụ thể, hơn là một bản đề xuất chung chung. Dẫu vậy, các chuyên gia gần như tin rằng mức lãi suất 5% này chưa có cơ sở nào để dự đoán. Lãi suất thấp hay cao gắn liền với hiện trạng của các ngân hàng lúc này.
Câu chuyện quan trọng hiện nay là tái cấu trúc hệ thống ngân hàng với những khoản nợ xấu. Bài học từ Thụy Điển, hay những quốc gia châu Á như Thái Lan, Hàn Quốc cho thấy nếu kiên quyết, thời gian xử lý nợ xấu từ thị trường mua bán nợ chỉ mất vài năm không phải là không thể. Tuy nhiên, cho đến nay VAMC, đơn vị xử lý nợ xấu của Việt Nam, vẫn chưa có tín hiệu tích cực nào.
Gần đây, các ngân hàng đã được kéo giãn thời gian trích lập dự phòng là 10 năm, thay vì 5 năm như trước, song đó mới chỉ là giải pháp tình thế. Tương lai của VAMC như thế nào phụ thuộc nhiều vào cơ chế pháp lý cần thiết để xử lý nợ xấu.
Trong trường hợp lạc quan nhất là VAMC thành công trong việc xử lý nợ xấu, liệu hệ thống ngân hàng có thể cấp vốn ra thị trường với mức lãi suất 5%?
Không phải ngẫu nhiên nhiều chuyên gia kinh tế đề cập đến việc phải bơm vốn trực tiếp cho các ngân hàng - cách xử lý thường thấy trên thế giới - để các tổ chức tín dụng có thể duy trì hoạt động. Mới đây, các chuyên gia IMF sau buổi làm việc với Chính phủ Việt Nam đã đưa ra con số 5 tỉ USD. Cũng có không ít chuyên gia kiến nghị trích một phần nguồn lực của Bảo hiểm Tiền gửi (hiện chủ yếu là mua trái phiếu chính phủ) để hỗ trợ các ngân hàng.
Tiền đâu để tăng vốn ngân hàng? Ảnh: Sơn Phạm
Bối cảnh chung khi đó là các ngân hàng đã thu hẹp về mặt số lượng, ngân hàng yếu kém không còn hoặc quy về một mối thông qua M&A. Lượng vốn cũng quy tụ về một vài ngân hàng. Vốn điều lệ cũng buộc phải tăng lên vì đến năm 2018, có tới 70% ngân hàng thương mại thực hiện các yêu cầu của Basel II. Khi vốn tăng, các ngân hàng cũng có điều kiện mở rộng khả năng cho vay.
Tuy nhiên, câu hỏi lớn vẫn là tiền đâu để tăng vốn? Hiện nay ngân sách chính phủ bị thâm hụt nghiêm trọng và giải pháp tìm nguồn lực bên ngoài lại được đặt ra. Mới đây, Vietcombank vừa ký biên bản ghi nhớ với GIC (Singapore) về việc quỹ đầu tư này sẽ mua lại và sở hữu 7,7% cổ phần của Vietcombank sau khi phát hành thêm. May mắn là các ngân hàng vẫn còn công cụ nới room.
Nhìn chung, muốn lãi suất thấp thì hệ thống phải có tiền. Không bơm tiền tăng vốn vào các ngân hàng, cơ quan quản lý cũng có thể tái cấp vốn giúp các ngân hàng có thể bơm tiền ra thị trường với chi phí rẻ hơn. Tuy nhiên, lạm phát theo sau cũng là câu chuyện đáng quan tâm. Theo bản kế hoạch này, lạm phát kỳ vọng ở mức tương đương lãi suất là 5%.
Với chính sách tiền tệ, việc thay đổi lãi suất thường phải mất 6 tháng trở lên mới có hiệu lực trong nền kinh tế. Đặt mục tiêu trong vòng 5 năm tới phải chăng là quá xa? Thực tế, nhiều tổ chức khi đưa ra dự báo đều phải có tầm nhìn xa, thậm chí từ 10 năm đến 20 năm. Theo "Báo cáo Việt Nam năm 2035: Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ" năm 2016 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư và World Bank thực hiện, GDP bình quân đầu người đến năm 2035 của Việt Nam ước đạt 18.000 USD (tính theo PPP bằng USD năm 2011), trong kịch bản khả quan nhất. Thông thường, mục tiêu được đặt ra thường lấy con số GDP để làm đích đến cụ thể và chuẩn xác, hơn là mức lãi suất cụ thể, vốn chỉ là công cụ thay đổi trong ngắn hạn.
Tất nhiên, mục tiêu sẽ chẳng là gì nếu không bàn đến những bước đi cụ thể để đạt được mục tiêu đó. "Công việc quan trọng mà Việt Nam phải làm là tăng cường nền tảng vĩ mô của nền kinh tế thị trường và phải đạt được những thành quả quan trọng nhất trong 5 năm tới", báo cáo viết.
Vậy đâu là yếu tố quyết định cho bài toán nền tảng vĩ mô của Việt Nam? Đó là năng suất lao động, là yếu tố giúp phần lớn các nước thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình (dù có tăng trưởng nhanh hay không).
Báo cáo trên cũng dẫn lại lời của Paul Krugman, nhà kinh tế đoạt giải Nobel, nói về tầm quan trọng của năng suất lao động như sau: "Năng suất không phải là tất cả, nhưng về lâu dài, nó gần như là tất cả. Liệu một quốc gia có khả năng nâng cao mức sống về lâu dài hay không gần như hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng nâng cao sản lượng tính trên đầu người lao động của quốc gia đó".
Theo Nhip câu đâu tư
Bỏ quên tái cơ cấu Ngân hàng Nhà nước? Chính phủ vừa chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước tiếp tục xây dựng đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, việc tái cơ cấu chính Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa từng được đặt ra cụ thể kể từ khi thực hiện công cuộc này năm 2011. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được xác định...