PGS.TS Đỗ Ngọc Thống: “Viết sách giáo khoa áp lực nhất là dư luận và mạng xã hội”
“Nếu giáo trình Đại học may lắm có vài trăm, vài nghìn sinh viên chuyên ngành đó đọc. Còn một cuốn SGK in ra có cả triệu ánh mắt đổ vào. Vì SGK liên quan đến mọi nhà, mọi người nên được soi rất kỹ” – PGS.TS Đỗ Ngọc Thống chia sẻ.
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ giáo dục Trung học (Bộ GD-ĐT), Chủ biên Chương trình giáo dục phổ thông mới môn Ngữ văn, Chủ biên sách giáo khoa Ngữ văn lớp 6 – Bộ Cánh Diều đã có cuộc trao đổi với phóng viên VOV liên quan tới việc triển khai chương trình, sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn lớp 6 theo chương trình giáo dục phổ thông mới.
Dạy Ngữ văn theo chương trình mới, không có chuyện giáo viên say sưa, bình tán tác phẩm theo ý của mình.
PV: Thưa PGS.TS Đỗ Ngọc Thống, là chủ biên chương trình giáo dục phổ thông mới môn Ngữ văn đồng thời là tác giả viết sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn, vậy, điểm khác biệt lớn nhất giữa SGK Ngữ văn 6 mới với SGK hiện hành là gì?
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống: Điểm khác nhau căn bản nhất giữa chương trình, SGK mới và chương trình, SGK Ngữ văn hiện hành là tập trung vào phát triển năng lực, phẩm chất học sinh. Thực ra “phẩm chất” là sự kế thừa vì từ trước đến nay dạy văn là dạy người, dạy văn góp phần phát triển nhân cách học sinh. Còn mới nhất ở đây là tập trung phát triển năng lực. Năng lực ở môn ngữ văn là gì? Là dạy các em cách đọc, cách viết, cách nghe, nói chứ không chạy theo nội dung, nhồi nhét kiến thức.
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ giáo dục Trung học (Bộ GD-ĐT), Chủ biên Chương trình giáo dục phổ thông mới môn Ngữ văn, Chủ biên sách giáo khoa Ngữ văn lớp 6 – Bộ Cánh Diều.
Lần đầu tiên chúng ta thực hiện chủ trương Nghị quyết 88 của Quốc hội: Một chương trình nhiều SGK. Do vậy, chương trình được xây dựng theo hướng mở. Phải có chương trình mở thì mới có nhiều SGK. Có nhiều SGK có nghĩa là có nhiều cách tiếp cận chương trình, nhiều cách thể hiện chương trình theo quan niệm, triết lý và tư tưởng sư phạm của mỗi tác giả, mỗi bộ sách.
Tuy nhiên, một nền giáo dục phải có sự thống nhất về chuẩn đầu ra. SGK thể hiện tư tưởng gì? Trình bày theo cách nào? Thiết kế SGK ra sao thì cuối cùng vẫn phải hướng đến mục tiêu mà chương trình đặt ra. Các mục tiêu đó được cụ thể hóa bằng các yêu cầu cần đạt. Nghĩa là cuối cùng học sinh phải viết tốt, nói, nghe rõ ràng, sáng sủa, mạch lạc. Đây là điều quan trọng nhất. Là sự thống nhất trong sự đa dạng.
PV: Dạy học Ngữ văn tập trung phát triển phẩm chất, năng lực học sinh, liệu có mất đi “chất văn” vốn có của môn học này hay không?
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống: Cái gọi là “chất văn” ở đây nghĩa là thế nào? Học văn là giúp học sinh có tâm hồn thoải mái, rộng mở, xúc động, hạnh phúc hay đau khổ… trước một tác phẩm văn học. Giáo viên có thể khơi gợi để giúp học sinh thấy được điều đó. Tôi hiểu “chất văn” là như thế. Nhưng, “chất văn” không có nghĩa là thầy giáo suốt ngày lên bảng bình tán, phân tích bài theo ý mình một cách say sưa và cuối cùng mục đích anh đạt được là gì?
Ở đây, chúng ta phải căn cứ vào mục tiêu dạy học môn Ngữ văn. Đó là tập trung phát triển năng lực để cuối cùng học sinh đọc một văn bản phải hiểu. Thầy giáo “tán” say sưa mà học sinh không hiểu bài, viết một câu văn, đoạn văn vẫn sai cả chính tả, ngữ pháp, diễn đạt lúng túng không ai hiểu mình muốn viết gì, nói gì? Thế thì “chất văn” nhiều để làm gì? Dĩ nhiên, dạy học Ngữ văn ít nhiều cũng phải có “chất văn”- tôi không phủ nhận điều này.
Video đang HOT
SGK lớp 6 bộ Cánh Diều trong Chương trình GDPT 2018.
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống: “Viết SGK bây giờ khó hơn trước rất nhiều. Áp lực dư luận xã hội, áp lực mạng xã hội rất cao. Trình độ phụ huynh, học sinh, giáo viên cũng ngày càng cao nên họ quan tâm rất nhiều đến chất lượng SGK. Đây là điều rất quý nhưng cũng là áp lực đặt lên vai những người viết sách”.
PV: Năm 2020, khi triển khai chương trình, SGK lớp 1, bộ sách tiếng Việt Cánh Diều vấp phải nhiều chỉ trích khi trích dẫn ngữ liệu, sử dụng từ ngữ. Vậy, với SGK Ngữ Văn 6, việc trích dẫn ngữ liệu phải đảm bảo nguyên tắc gì để tránh xảy ra sai sót?
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống: Vì chương trình mở nên ngữ liệu được trích dẫn trong SGK Ngữ văn cũng mở. Mỗi SGK có cách trích dẫn ngữ liệu khác nhau. Vì dụ, cùng dạy truyền thuyết nhưng mỗi sách có thể lựa chọn tác phẩm truyền thuyết khác nhau. Tuy nhiên, phải có những tiêu chí để không lúng túng. Tiêu chí đã được nêu rất rõ trong chương trình. Ngữ liệu phải bảo đảm tính tư tưởng, đạo đức, chức năng giáo dục, ngôn ngữ trong sáng, phù hợp với lứa tuổi và phải là tác phẩm tiêu biểu cho thành tựu Văn học Việt Nam.
Nói thì nhiều thực chất tập trung vào 2 tiêu chí: Văn bản đó phải đảm bảo đặc trưng thể loại và kiểu văn bản để giáo viên dạy học sinh cách đọc. Nếu dạy truyền thuyết mà chọn tác phẩm không tiêu biểu thì giáo viên không dạy được. Thứ hai nội dung phải tiêu biểu cho thành tựu văn học, văn hóa dân tộc. Qua tác phẩm, học sinh được trang bị vốn văn hóa, văn học, thành tựu tiêu biểu của dân tộc trong một thời kỳ lịch sử nào đó.
Trong chương trình quy định rất rõ 3 loại tác phẩm. Loại tác phẩm bắt buộc phải học, tức là bộ sách nào cũng phải đưa vào dạy, ví dụ: Bình Ngô đại cáo, Hịch tướng sĩ, Tuyên ngôn độc lập… Loại thứ hai là tác phẩm/tác giả bắt buộc tự chọn. Ví dụ, bắt buộc chọn dạy tác giả Nam Cao nhưng chọn tác phẩm nào của Nam Cao thì tùy từng tác giả, tùy từng bộ sách. Loại thứ 3 là tự chọn. Chương trình chỉ đưa ra gợi ý còn không bắt buộc tác giả viết sách phải chọn.
PV: Với sự thay đổi căn bản trong chương trình, SGK mới đòi hỏi sự thay đổi trong phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn như thế nào, thưa PGS?
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống: Thay đổi căn bản nhất trong phương pháp là từ chỗ các thầy, các cô say sưa lên lớp giảng những điều mà thầy cô hiểu về tác phẩm ấy cho học sinh nghe, phân tích cái hay cái đẹp của tác phẩm nhưng theo cách hiểu của thầy. Còn giờ đây khi chuyển sang phát triển năng lực, giáo viên lên lớp chủ yếu là tổ chức các hoạt động, tạo ra các tình huống, nêu lên những câu hỏi, vấn đề, bài tập để cho học sinh làm việc, tự tìm ra cái hay, cái đẹp theo nhận thức, tình cảm của chính các em.
Nói như vậy không có nghĩa là thủ tiêu vai trò của người thầy. Mà riêng việc nghĩ ra hệ thống hoạt động dẫn dắt học sinh đã là rất khó cho giáo viên. Ngoài ra thầy còn có quyền nêu lên ý kiến, bình giá của mình, cảm nhận của mình để nâng cao trình độ tiếp nhận, tạo ra được “chất văn” trong mỗi bài học.
Viết sách giáo khoa bây giờ khó hơn trước rất nhiều.
PV: Vậy, cách kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn sẽ có sự khác biệt thế nào so với cách kiểm tra, đánh giá mà các nhà trường đang thực hiện?
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống: Kiểm tra, đánh giá là khâu cuối cùng của quá trình dạy học. Chúng ta đã thay đổi mục tiêu, nội dung, phương pháp thì tất yếu phải thay đổi cách đánh giá. Vậy, giờ có nhiều bộ sách thì phải đánh giá kết quả học tập môn ngữ văn như thế nào? Thay đổi lớn nhất trong đánh giá môn Ngữ Văn là giáo viên phải căn cứ vào yêu cầu cần đạt của chương trình. Không căn cứ vào SGK cụ thể nào.
Ví dụ, kiểm tra đọc hiểu một bài thơ lục bát. Trong chương trình đặt ra yêu cầu học sinh nắm được đặc điểm, cách đọc bài thơ lục bát. Như vậy, không thể căn cứ vào bài lục bát của sách A, sách B được mà người ra đề phải chọn một bài thơ lục bát không nằm trong bộ sách nào cả. Như vậy sẽ đo được khả năng vận dụng, cách đọc thơ lục bát của học sinh trong một ngữ liệu mới. Mới ở đây không có nghĩa là khó, đánh đố học sinh mà là tương đương thể loại, tương đương độ khó trong ngữ liệu SGK.
PV: Tham gia viết SGK trong bối cảnh trước đó SGK tiếng Việt lớp 1 bộ Cánh Diều gặp không ít lùm xùm, cá nhân ông có cảm thấy áp lực?
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống: Không có vụ lùm xùm SGK tiếng Việt lớp 1 bộ Cánh Diều thì người viết SGK vẫn áp lực. Nhưng riêng chuyện vừa viết chương trình vừa viết SGK có áp lực hay không thì tôi khẳng định là không. Ở đây, không phải là mâu thuẫn, không phải “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Những người viết chương trình sẽ là những người hiểu chương trình nhất. Khi viết SGK họ sẽ thể hiện chương trình một cách đúng nhất, có lợi cho giáo viên và học sinh nhất. Do vậy không có áp lực gì.
Nhưng áp lực đối với người viết SGK ở đây là gì? Đó là áp lực lần đầu tiên chúng ta đổi mới chương trình, SGK một cách toàn diện nhất. 30 năm nay tôi đã viết chương trình, viết SGK. Tôi cũng trải qua 3 lần thay đổi chương trình, SGK thì đây là lần thay đổi lớn nhất. Trước sự thay đổi như vậy, lực lượng, kinh nghiệm chúng ta còn đang mỏng. Do vậy, ai cũng vậy thôi, đứng trước nhiệm vụ khó thì đều áp lực.
Thứ hai, tính chất viết SGK rất khác. Tôi viết từ giáo trình Đại học đến SGK lớp 6. Nếu giáo trình Đại học may lắm có vài trăm, vài nghìn sinh viên chuyên ngành đó đọc. Còn một cuốn SGK in ra có đến cả triệu ánh mắt đổ vào. Hàng triệu học sinh, hàng triệu phụ huynh, bạn đọc nhìn vào. Vì SGK liên quan đến mọi nhà, mọi người nên SGK được soi rất kỹ. Những lỗi có trong SGK nếu soi ở những ấn phẩm khác thì rất nhiều. Nhưng SGK thì không được phép sai sót. Cho nên, chính yêu cầu, đặc thù viết SGK tạo ra một áp lực rất lớn
Và đặc biệt là áp lực dư luận xã hội, áp lực mạng xã hội ngày càng cao. Trình độ phụ huynh, học sinh, giáo viên cũng ngày càng phát triển nên họ quan tâm rất nhiều đến chất lượng SGK. Đây là điều rất quý nhưng cũng là áp lực đặt lên vai những người viết sách.
Tôi khẳng định, viết SGK bây giờ khó hơn trước rất nhiều.
PV: Xin cảm ơn ông!./.
Mỗi trường chọn một sách giáo khoa, học sinh chuyển trường có phải mua sách mới?
Việc chuyển trường được thực hiện vào cuối học kì 1 hoặc cuối năm học, vì vậy học sinh học sách giáo khoa nào cũng phải đạt được các yêu cầu cần đạt.
Thời gian qua Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hồ Chí Minh gửi tới Bộ Giáo dục và Đào tạo việc cử tri bức xúc những bất cập trong nội dung chương trình trong sách Tiếng Việt lớp 1 (thuộc bộ sách giáo khoa Cánh Diều) chưa phù hợp, còn nhiều lỗi, không mang tính giáo dục.
Bên cạnh đó, cử tri còn phản ánh giá sách giáo khoa tăng cao so với năm học trước, thiếu hướng dẫn và thông tin chưa rõ ràng việc sử dụng sách giáo khoa trong các nhà trường. Cử tri cho rằng nếu mỗi trường áp dụng dạy một bộ sách giáo khoa sách riêng thì khi học sinh chuyển trường lại phải chuyển sách, rất khó khăn, gây lãng phí. Cử tri đề nghị Bộ kiểm tra lại công tác thẩm định sách giáo khoa, xử lý nghiêm các sai phạm (nếu có).
Nội dung này, ngày 2/3, Bộ Giáo dục và Đào tạo có trả lời như sau:
Trước những phản ánh từ đội ngũ giáo viên, phụ huynh học sinh và dư luận xã hội về việc sách giáo khoa môn Tiếng Việt lớp 1 còn gặp một số khó khăn trong quá trình tổ chức dạy và học; một số ngữ liệu trong sách giáo khoa môn Tiếng Việt lớp 1 chưa phù hợp, Bộ GDĐT đã ban hành Công văn số 4090/BGDĐT-TH yêu cầu Hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa (Hội đồng thẩm định) và các Nhà xuất bản có sách giáo khoa môn Tiếng Việt lớp 1 thực hiện rà soát, kiểm tra các nội dung dư luận phản ánh và báo cáo về Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Hiện nay, các Hội đồng thẩm định, tác giả và các nhà xuất bản đã và đang tiếp tục triển khai các bước thực hiện, gửi báo cáo về Bộ Giáo dục và Đào tạo những nội dung theo quy định để thực hiện điều chỉnh, bổ sung trong các lần tái bản.
Theo quy định của Luật giá, sách giáo khoa thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ thực hiện kê khai giá, không thuộc danh mục mặt hàng do Nhà nước định giá, bình ổn giá. Tuy nhiên, xác định sách giáo khoa là mặt hàng đặc biệt, có ảnh hướng đến nhiều gia đình, nhất là những hộ nghèo, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội đưa sách giáo khoa vào danh mục hàng hóa do Nhà nước định giá nhằm tăng cường vai trò điều tiết của Nhà nước đối với sách giáo khoa.
Ảnh minh họa: Lã Tiến
Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tiếp tục chỉ đạo các nhà xuất bản biên soạn sách giáo khoa thực hiện các nội dung sau: tinh giản nội dung phù hợp để giảm số trang sách giáo khoa, tiết kiệm chi phí trong các khâu xuất bản, phân phối sách giáo khoa (lớp 2, lớp 6 và các lớp tiếp theo) để giảm giá thành sách giáo khoa; quán triệt nghiêm việc biên soạn sách giáo khoa sử dụng được nhiều lần (hạn chế học sinh viết, vẽ, làm bài tập trực tiếp vào sách giáo khoa); khuyến khích học sinh giữ gìn sách giáo khoa, đóng góp vào các thư viện trường học để học sinh có hoàn cảnh khó khăn được mượn, sử dụng miễn phí; tiếp tục có chính sách hỗ trợ sách giáo khoa cho các học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh vùng dân tộc thiểu số.
Việc chuyển trường được thực hiện vào cuối học kì 1 hoặc cuối năm học, vì vậy học sinh học sách giáo khoa nào cũng phải đạt được các yêu cầu cần đạt đối với môn học, lớp học đó nên không ảnh hưởng đến việc học tập của học sinh.
Với những trường hợp chuyển trường giữa năm học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã hướng dẫn các nhà trường thực hiện theo quy trình gồm các bước thực hiện rõ ràng trong Điều lệ trường Tiểu học cụ thể: Trường có học sinh chuyển trường cung cấp thông tin về tài liệu học tập tại trường, tiến độ thực hiện chương trình, bảng tổng hợp kết quả đánh giá rèn luyện và học tập của học sinh; hiệu trưởng trường nơi chuyển đến tổ chức trao đổi, khảo sát, hướng dẫn bổ sung các nội dung cần thiết cho học sinh, gặp gỡ tư vấn cùng gia đình trước khi tiếp nhận và xếp học sinh vào lớp phù hợp.
Với các quy định về chuyển trường này, trường tiếp nhận học sinh chuyển đến hoàn toàn có cơ sở để hỗ trợ giúp đỡ học sinh hoàn thành chương trình các môn học và hoạt động giáo dục trước khi tiếp nhận và xếp lớp phù hợp cho học sinh.
Tiếp thu kiến nghị của cử tri, tới đây Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm quá trình xã hội hóa việc biên soạn, phát hành sách giáo khoa lớp 1 theo quy định tại Nghị quyết số 122/2020/QH14 của Quốc hội; tiếp tục chỉ đạo việc biên soạn, thẩm định sách giáo khoa từ lớp 2 đến lớp 12 bảo đảm thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông mới theo lộ trình quy định; hoàn thiện quy trình, chính sách biên soạn sách giáo khoa phổ thông.
Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong lựa chọn sách giáo khoa Cử tri TP Hồ Chí Minh kiến nghị cần quan tâm, chấn chỉnh trong việc biên soạn sách giáo khoa (SGK); bên cạnh đó, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong việc lựa chọn SGK để tránh các hiện tượng tiêu cực. Ảnh minh họa/INT Về nội dung này, Bộ GD&ĐT cho biết: Theo Nghị quyết số 88/2014/QH13 về đổi...