PGS. TS ngôn ngữ nói về sách Tiếng Việt lớp 1: Sách làm cập rập, tranh giành, chưa thí điểm rút kinh nghiệm đủ lớn?
“Nhìn chung các bộ sách hiện nay không có bộ nào hoàn hảo cả” là nhận xét của nhà nghiên cứu ngôn ngữ đang công tác tại ĐH ở TP. HCM khi được yêu cầu đánh giá về chất lượng các bộ SGK tiếng Việt năm nay.
* Bài viết thể hiện quan điểm cá nhân của tác giả, không thuộc về tòa soạn. Vì nhu cầu cá nhân, chúng tôi xin phép được ẩn danh tác giả.
Hơn một tháng tổ chức dạy và học, chương trình sách giáo khoa tiếng Việt lớp 1 bị nhiều nhà nghiên cứu giáo dục, giáo viên, phụ huynh phản ánh không chỉ quá “nặng” mà còn quá nhiều “sạn”. Trong đó, có thể đến kể hàng loạt những bài tập đọc “thiếu tính giáo dục”, nhiều từ ngữ địa phương gây khó hiểu cho trẻ nhỏ.
Có thể nói chưa có lúc nào sách giáo khoa lớp 1, đặc biệt là sách tiếng Việt lại được đem ra “mổ xẻ” rôm rả như hiện nay. Dạo một vòng quanh các nhóm Facebook của các bậc cha mẹ có con vào lớp 1 năm nay mới thấy các bài phản ánh với tâm trạng bàng hoàng và cả bức xúc nhiều đến thế nào.
Bên cạnh đó, “chương trình nặng” cũng khiến nhiều trẻ gặp khó khăn với việc học. Mới lớp 1 mà đã có nhiều trẻ phải học thêm bởi sợ không theo kịp chương trình. Thế là một người đi học mà cả nhà lo lắng, mệt mỏi.
Những học sinh lớp 1 năm nay dã trải qua hơn 1 tháng học đầy sóng gió (Ảnh minh họa).
Cứ mở sách là nhặt “sạn” chi chít
Những ngày gần đây, phụ huynh đã chỉ ra một loạt “sạn” trong sách Tiếng Việt 1. Cụ thể, những hạt sạn được nhiều phụ huynh chỉ ra như sau:
Bài số 31 (tiếng Việt lớp 1, bộ sách Cánh diều) dùng chữ “dưa đỏ”. Theo nhiều phụ huynh, từ này không hoàn toàn chính xác, bởi thông thường hay nói là “ dưa hấu đỏ” hoặc chỉ gọi là “dưa hấu” chứ chưa thấy ai dùng từ “dưa đỏ”.
Ví dụ về “dưa đỏ”.
Bài 33 – “Thỏ thua rùa” viết: “Nó la cà nhá cỏ, nhá dưa”. Từ “nhá” là từ có nghĩa nhưng thuộc phương ngữ, chỉ dùng nhiều ở phía Bắc.
Tương tự, trong một bài tập đọc có tên “Cô Xẻng siêng năng”, từ “không” thay bằng “chả” (chả muốn, chả cần…) hay bài “Mẹ con cá rô có cụm từ “thở hí hóp”. Theo nhiều phụ huynh, họ chưa từng nghe tới cách dùng từ này trước đó.
Những từ ngữ địa phương liên tục xuất hiện trong sách Tiếng Việt 1.
Không chỉ dùng phương ngữ tràn lan, một số kiến thức được truyền tải trong SGK lớp 1 cũng bị nhiều phụ huynh cho rằng thiếu chính xác hay cổ xúy bạo lực, dạy trẻ lươn lẹo. Trong bài tập đọc “Chuột út”, gà trống được gọi là “thú dữ”. Tương tự, trong bài “Hai con ngựa” dạy trẻ con tư tưởng trốn việc, khi chú ngựa ô cho rằng “có lý lắm” để nói về việc chú ngựa tía trốn việc nhà bằng cách “chủ nhà mà giục em làm, em sẽ trốn”.
Video đang HOT
Bài đọc “Hai con ngựa”.
Một ví dụ khác dạy trẻ bạo lực được phụ huynh đưa ra: “Cò kiếm ăn ở ven hồ. Gặp cá rô, nó ra vẻ thật thà. Dăm hôm nữa, hồ bị tát cạn, cá tôm sẽ bị bắt hết. Đàn cá nhờ cò giúp. Cò hứa đưa đàn cá đến xóm bên. Lũ cá nghe cò. Thế là cò dần chén hết đàn cá”.
Câu chuyên Cua, cò và đàn cá.
Theo nhiều giáo viên, viết SGK không những đòi hỏi kiến thức chuẩn, phù hợp tâm lý lứa tuổi mà còn phải đủ sự tinh tế, giá trị, ý nghĩa. SGK mà đưa những kiến thức truyền dạy sự mưu mẹo, lừa lọc cho trẻ em lớp 1 thì “đúng là không sao hiểu nổi!”.
PGS. TS ngôn ngữ nói gì?
Nói về những “hạt sạn” rất lớn trong nội dung các bộ SGK tiếng Việt năm nay, một PGS. TS Ngôn ngữ học đang công tác tại một trường ĐH ở TP.HCM cho biết: “Đúng là trong SGK không nên dùng từ ngữ địa phương mà hướng tới một ngôn ngữ phổ biến trong toàn dân. Tuy nhiên, người soạn cũng có cái khó là phải lựa chọn những tiếng đã học để soạn văn bản. Có khi tiếng đúng ngữ cảnh nhưng lại khó nên họ lúng túng. Nhưng cũng khó lòng biện minh cho việc trong một văn bản con mà sử dụng đến 5 lần từ chả”.
“Thật ra lỗi nặng nhất theo tôi là ở cách thức tổ chức văn bản”, ông nói tiếp. Ví dụ văn bản Chó xù: “Chó xù lừ lừ đi ra ngõ. Lũ gà ngỡ nó là sư tử, sợ quá. Sư tử đi qua. Nó ngó chó xù: Mi mà sư tử à? Chó xù sợ quá: Dạ… chỉ là chó xù ạ” có sử dụng hàm ý và hàm ý này quá cao so lớp trình độ lớp 1.
Hay bài tập đọc có tên Ví dụ: “Chị Thơm ra đề: Cặp của Bi có 3 quả cam. Bi đáp: Em chả đem cam ra lớp. Chị ví dụ mà… Chị tiếp nhé: Bi cho em Bốp 1 quả. Chị nhầm ạ. Em Bốp chỉ bú tí mẹ. Thì chị ví dụ mà…” lại là một văn bản dành cho trẻ em “xuất chúng” và nội dung hoàn toàn vô nghĩa. Bài tập đọc “Hứa và làm” thì lủng củng, liên kết giữa các câu không mạch lạc”.
Bài tập đọc được cho là lủng củng, liên kết giữa các câu không mạch lạc.
Chưa có bộ sách giáo khoa hoàn hảo
“Nhìn chung các bộ sách hiện nay không có bộ nào hoàn hảo cả” là nhận xét của nhà nghiên cứu ngôn ngữ này khi được yêu cầu đánh giá về chất lượng các bộ SGK tiếng Việt năm nay.
Theo ông, sách năm nay làm cập rập, tranh giành do có nhiều bộ sách được sử dụng cùng một năm, chưa thí điểm đủ lớn, đủ lâu để rút kinh nghiệm. Tốc độ triển khai bên ngoài đã nhanh mà phân bố tri thức ở nội dung sách cũng quá vội. “Đơn giản, cứ lấy thử một cuốn sách cũ so sánh với sách mới sẽ thấy ngay. Trung bình 5,6 trang sách tiếng Việt cũ thì kiến thức truyền tải mới bằng một trang của sách mới. Nói cách khác, nội dung nặng quá”.
Ở sách tiếng Việt cũ, mỗi bài, học sinh học 1-2 chữ cái và có bài ôn tập xen kẽ trước khi bước sang học chữ mới. Học sinh ít khi phải học đến 3 âm, vần trong một bài nên rất vừa sức của trẻ.
So sánh sách cũ, nhiều người nhận thấy trẻ em ngày nay phải học quá nhiều… Chẳng hạn, ở sách tiếng Việt cũ năm 1990, phần vần bắt đầu từ bài 42, tức nếu mỗi ngày, học sinh học một bài, đến tuần thứ 9, họ mới học sang phần vần. Trong khi đó, với sách mới, trẻ đã học đến vần “ua”, “ưa”, “ia” dù mới chỉ ở tuần thứ 5. Phần ứng dụng trong sách giáo khoa chương trình cũ chỉ có 2 – 3 câu đơn giản thì sách giáo khoa mới có khi học sinh lớp 1 phải đọc nguyên một bài thơ hoặc cả một văn bản dài.
Trong chương trình tiếng Việt năm 2000, chuẩn kiến thức kĩ năng của học sinh lớp 1 chỉ yêu cầu tốc độ đọc của các em 30 tiếng/phút. Trong khi chương trình mới lại yêu cầu học sinh lớp 1 “Đọc đúng và rõ ràng đoạn văn hoặc văn bản ngắn. Tốc độ đọc: 40 – 50 tiếng/phút. Biết ngắt hơi ở chỗ có dấu phẩy, dấu kết thúc câu hay ở chỗ kết thúc dòng thơ”. Ngoài ra, còn phải đọc được văn bản có độ dài 130 chữ trở lại. Có thể thấy, yêu cầu kiến thức đối với học sinh lớp 1 đã tăng gần gấp đôi.
Chán sách mới, nhiều phụ huynh đua nhau tìm về sách cũ
Trên các diễn đàn, nhiều phụ huynh cũng mách nhau địa chỉ để tìm mua sách giấy hoặc chia sẻ cho nhau các file sách tiếng Việt cũ. Họ “truyền tay” nhau và tiếc nuối những câu chữ đẹp đẽ đầy kỉ niệm ngày đi học ngày xưa. Hầu hết phụ huynh đều đồng ý rằng, chương trình học ngày xưa nhẹ nhàng, các bài đọc ngắn và có vần điệu, dễ nhớ, tranh vẽ mộc mạc, gần gũi. Những câu từ, câu chữ trong sách gần gũi dễ hiểu mà thấm nhuần tư tưởng nhân văn. Chẳng hạn như bài thơ:
“Mẹ bế bé đi nhà trẻ.
Cô ân cần đón bé. Cô hôn bé.”
“Bé lon ton ra ngõ đón bà
Bà cho bé quả cam”…
Sách Tiếng Việt cũ đang được lòng nhiều phụ huynh.
Theo PGS. TS Ngôn ngữ học này, sách cũ được phụ huynh yêu thích vì nó đơn giản, chấp nhận tính thiếu nhất quán nhưng dễ dùng, phù hợp với lứa tuổi. “Những bài học đầu đời rất quan trọng vì nó để lại dấu ấn sâu đậm, khó quên trong tâm trí mỗi người, SGK nên được khuyến khích dùng ngữ liệu là những câu chuyện đẹp, ngôn từ đẹp, định hướng tốt, giáo dục lối sống, kỹ năng và có thể lấy từ chính những câu chuyện có thật trong cuộc sống hằng ngày”, ông nói tiếp.
PGS. TS chia sẻ, giải pháp để cải thiện vấn đề tồn đọng của SGK lớp 1 năm nay phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ giáo viên, những người trực tiếp giảng dạy. Hãy dành cho thầy cô một sự lựa chọn tự nguyện, nhất là thầy cô có kinh nghiệm để họ tự điều chỉnh tri thức và cách dạy sao cho đạt hiệu quả hơn . “Với phụ huynh, dù lo lắng là chính đáng nhưng không nên hoang mang quá, hãy tin tưởng thầy cô và cố gắng đồng hành cùng con. Tiếng Việt đơn giản lắm, rồi các em cũng sẽ vượt qua những khó khăn không đáng có này”.
Không chỉ dạy chữ, quan trọng là dạy người
Sau khi cha mẹ học sinh lớp 1 nêu lên những vấn đề bất cập trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 bộ Cánh diều, cả GS Nguyễn Minh Thuyết - Tổng chủ biên và GS Trần Đình Sử - Chủ tịch Hội đồng thẩm định đã có phát ngôn trên báo chí. Nhưng, đó là những lời biện minh chưa có tính thuyết phục.
GS Nguyễn Minh Thuyết thuyết minh rằng "khi dạy chữ, vần, người viết sách phải tạo ra bài đọc để các chữ, vần mới học được lặp lại nhiều lần, giúp học sinh không quên chữ, đọc, viết tốt. Các sách giáo khoa mới, không chỉ riêng Cánh diều, đều sớm đưa việc đọc câu, bài vào để học sinh đọc tốt hơn".
Việc đó không ai phản bác ông. Người ta nói về các bài tập đọc mải chạy theo những từ ngữ ngô nghê, những đoạn văn trúc trắc mà các ông nặn ra để chứa các chữ mới, vần mới với tần suất lặp lại đến khó chịu.
Phần Tập đọc Sẻ, quạ ở bài 25, trang 49 là một ví dụ. Đúng là chim thì phải hót, nhưng khi nghĩ đến loài chim này, đa phần tuyệt nhiên không có ấn tượng về điều đó. Vậy mà các ông nhân cách hóa thành sẻ "ca" (?!)
Đối với thế giới tự nhiên, trẻ em chưa trải nghiệm được hết, nên những bài học đầu đời phải chính xác, các chi tiết phải mang tính phổ biến. Loài sẻ liệu có ca "ri ri" không? Và quạ, tiếng la của nó có phải là "quà quà" như sách viết?
Thế nên mới có những từ ngữ "quái dị" như chú thỏ "nhá cỏ, nhá dưa" mà GS Thuyết thừa nhận là phải dùng vì "nhá" có nghĩa giống "nhai cỏ, nhai dưa" nhưng học sinh chưa học vần "ai" nên phải dùng "nhá". Đáng tiếc, những từ ngữ quái dị này không chỉ chỉ xuất hiện một vài lần.
Thiết nghĩ, nếu nhóm tác giả không mô tả được thế giới tự nhiên gần gũi với các em một cách chính xác thì các em chỉ được tiếp cận với vỏ chữ kiểu máy móc và với những thông điệp sai lạc.
Cả một bài Tập đọc do các ông sáng (chứ không phải tối!) tác ra đọc lên thấy khiên cưỡng, trục trặc, nặng về kỹ thuật ghép vần chứ không hề cuốn hút, dễ nhớ như những câu ca dao, tục ngữ, đồng dao hay những câu thơ hay của các nhà thơ mà phần chữ, phần vần vừa dễ hiểu vừa ngân nga trong tâm thức.
Tiếng Việt hay và đẹp do được chứa đựng các báu vật đó. Qua những câu ca dao, tục ngữ, câu thơ hay mà học sinh nhớ cách ghép vần. Và cao hơn nữa, những bài học đầu đời đó trở thành hành trang nhân ái đi theo họ suốt cuộc đời sau này.
Còn ở đây, việc thiết kế bài học chỉ nhằm vào việc dạy chữ mà xem nhẹ những thông điệp mang tính giáo dục. Xin dẫn phần Tập đọc Bé Hà, bé Lê ở bài 12, trang 27.
Một em bé bị ho chạy lại bảo bà: "Hà ho, bà ạ" để cầu mong sự sẻ chia thì bà đáp lại: "Để bà bế bé Lê đã". Thế nhưng, "Ba bế cả Hà, cả bé Lê". Như vậy phải chăng bà vô cảm, còn ba yêu cả hai bé? Câu chuyện, buồn thay, có thể được hiểu theo cách đó.
Để đáp ứng cho kỹ thuật dạy chữ, yếu tố dạy người đã không được chú ý. Điều này được lặp lại nhiều lần trong sách. Thậm chí, để đáp ứng cho việc dạy chữ đơn thuần các ông đã bịa tạc, cắt khúc những câu chuyện nổi tiếng của các nhà văn vĩ đại thành những đoạn văn, câu chuyện chẳng giống ai; thậm chí, trái ngược với nguyên tác.
Ở đây xin tạm bỏ qua việc phỏng theo mà không giữ đúng tinh thần nguyên tác bằng cách đổi tên nhân vật trong truyện, phỏng theo truyện của người đã chết để tránh tranh cãi về sự chính xác của văn bản, ý nghĩa và cả vấn đề tác quyền.
Chỉ xin nói đây là câu chuyện được các tác giả cắt ra làm đôi để phục vụ việc dạy chữ khiến phần 1 câu chuyện thiếu hẳn tính giáo dục, cứ như dạy các em cách trốn việc, chống chủ, lười lao động.
Là những giáo sư bụng chứa cả bồ chữ, chắc các ông không thể không biết giai thoại: "Đau bụng uống nhân sâm, tất chết!". Một câu chuyện hoàn chỉnh bỗng bị cắt đôi, dạy vào hai tiết học khác ngày nhau chứa những thông điệp khác nhau là việc không thể chấp nhận được.
Bởi vì, ấn tượng ban đầu của các em đối với những gì được dạy, nhất là với những tâm hồn trong trẻo, chắc chắn không thể dễ quên. Cách xử lý như vậy, theo các ông có đảm bảo tính sư phạm, tính giáo dục?
Mong các ông xem cách xây dựng một bài Tập đọc ngày xưa. Nhóm tác giả đã không biến Chó - con vật trung thành, tử tế, gắn bỏ với con người, không hề dính tì vết gian tham - thành nhân vật phản diện, đáng khinh ghét như Cáo.
Và như các ông thấy đấy, nội dung thông điệp không chỉ toát ra từ văn bản mà nó còn thể hiện ra từ phần Nhận xét và khiến học sinh nhắc đi, nhắc lại ở phần Tập viết. Một bài học thật tường minh, đầy tính giáo dục mà từ con trẻ tới cha mẹ các em, giáo viên đều thấy thông điệp giáo dục bật ra rờ rỡ.
Thưa hai giáo sư, hẳn các ông không vừa lòng vì bị xã hội phản ứng. Ông Sử khẳng định "không có chuyện tác giả đưa các câu chuyện vào sách để dạy trẻ thói gian lận, khôn lỏi. Người đánh giá cần đọc kỹ hơn".
Tôi hiểu, các tác giả chẳng dại gì rắp tâm làm thế. Nhưng tâm họ không trong trẻo, tầm họ chẳng vút cao nên mới xảy chuyện "lẩy bẩy như Cao Biền dậy non" mà thôi.
Ông Thuyết khuyên: "Tôi tin nếu phụ huynh chờ đợi, không lâu đâu, mọi người sẽ thấy hiệu quả của sách. Việc xem xét điều chỉnh là cần thiết nhưng không thể đẽo cày giữa đường, ai nói gì cũng nghe được", còn ông Sử thì bảo "phải chờ đến hết năm mới đánh giá được việc học sách giáo khoa mới".
Xin lỗi các ông, có lẽ chẳng phải chờ lâu đến thế đâu. Điều các ông cần làm lúc này là lắng nghe, suy nghĩ và bàn bạc để trả lời cho thấu tình đạt lý trước dư luận xã hội và tìm ra các phương án sửa sai cho sách giáo khoa kỳ tới và năm sau.
Dân có thể không đúng hết từng li từng tí vì họ là dân chứ không họ đã ngồi thay nhiều vị ở chỗ đang ngồi. Nhưng không thể nào nói rằng chỉ là dân hiểu lầm, chỉ là dân nông cạn, chỉ là dân không biết gì bị dắt mũi, chỉ là cạnh tranh không lành mạnh được. Hãy tổ chức hội thảo hay thậm chí tranh luận trực tiếp trên các phương tiện truyền thông đi.
Trích từ FB nhà nghiên cứu Nguyễn Quốc Vương
*Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả!
Giáo viên yên tâm giảng dạy khi sách giáo khoa đã được thẩm định kỹ càng Gần đây mạng xã hội xuất hiện những phản hồi khá gay gắt về ngữ liệu sử dụng trong một số bài tập đọc trong SGK Tiếng Việt lớp 1, bộ sách Cánh diều. Tuy nhiên, theo các giáo viên, họ yên tâm khi sách đã được thẩm định kỹ càng và những cái hay cái tốt hiện đang được chú trong phát...