Ô nhiễm ánh sáng đối với sức khỏe con người
Ô nhiễm ánh sáng là một trong những vấn đề đang tác động tiêu cực lên môi trường thiên văn, các loài sinh vật cũng như môi trường sinh thái tự nhiên, đồng thời ảnh hưởng đến việc sử dụng năng lượng của con người. Ô nhiễm ánh sáng được định nghĩa là việc lạm dụng ánh sáng nhân tạo quá mức cần thiết so với khả năng chịu đựng ánh sáng của con người và môi trường.
Ô nhiễm ánh sáng được phân chia thành 4 loại. Bốn loại ô nhiễm ánh sáng này không đơn lẻ mà thường kết hợp hoặc chồng lắp nhau:
- Ánh sáng xâm nhập: việc chiếu sáng quá mức cần thiết vào các khu dân cư về đêm.
- Lạm dụng ánh sáng: chiếu sáng ở những nơi không cần ánh sáng, chiếu sáng ngoài ý muốn gây lãng phí.
- Ánh sáng chói lòa: chiếu sáng với cường độ sáng quá mức gây hiệu ứng tiêu cực về mặt thị giác. Mức độ chói lòa quá cao có thể làm giảm thị lực.
- Ánh sáng lộn xộn: nhiều nguồn sáng được sử dụng quá mức cùng một lúc. Loại ô nhiễm ánh sáng này phổ biến ở các khu đô thị, góp phần gây ra các loại ô nhiễm ánh sáng còn lại.
Tác động đối với sức khỏe con người
Chói mắt:
Những khu vực được chiếu sáng quá mức gây chói mắt, khiến cho con người có phản xạ nhắm mắt hoặc ngoảnh mặt đi để màn ánh sáng không phân tán xuyên qua võng mạc. Những tác động tiêu cực của màn ánh sáng đối với mắt:
Video đang HOT
- Giảm độ tinh tế.
- Giảm khả năng nhận biết màu sắc.
- Giảm khả năng nhận biết độ tương phản.
Nhịp sinh học, hay còn gọi là đồng hồ sinh học, là chu kỳ hoạt động trong vòng 24 giờ ảnh hưởng đến các quá trình sinh lý của hầu hết cơ thể sống. Những quá trình này bao gồm hoạt động của não bộ, sự sản xuất hormone (melatonin), các hoạt động của tế bào và nhiều hoạt động sinh học khác. Ô nhiễm ánh sáng có thể làm rối loạn nhịp sinh học, gây mất ngủ, suy nhược cơ thể, ung thư và các bệnh về tim mạch.
Melatonin:
Melatonin là một loại hormone được sản xuất một cách tự nhiên thông qua môi trường bóng tối và bị kìm hãm bằng ánh sáng. Hormone này có chức năng chủ yếu là điều chỉnh chu kỳ hằng ngày của các hoạt động mang tính hệ thống của con người. Vì vậy, bóng tối về đêm có tác dụng duy trì nhịp độ sản xuất melatonin ổn định. Bất kỳ loại ánh sáng nào cũng có thể gây rối loạn quá trình sản xuất melantonin ở người, nhưng ánh sáng có màu lam và bước sóng ngắn là có khả năng làm suy giảm melatonin nghiêm trọng nhất.
Rối loạn giấc ngủ:
Trong một thế giới hiện đại luôn được chiếu sáng thường trực như ngày nay, việc tiếp xúc thường xuyên với ánh sáng làm gia tăng nguy cơ rối loạn nhịp độ sinh hoạt, ảnh hưởng đến khả năng đi ngủ và thức dậy đúng giờ của con người, đồng thời tác động lên các quá trình chuyển hóa của cơ thể. Trong khi đó, một giấc ngủ đầy đủ có thể giúp cơ thể con người chống thừa cân, giảm stress, tái tạo sức lao động và giảm nguy cơ đái tháo đường.
Ô nhiễm ánh sáng và ung thư: Cộng đồng khoa học vẫn đang nghiên cứu về rối loạn nhịp sinh học và những hậu quả của sự suy giảm quá trình sản xuất melatonin gây ra do sự tiếp xúc ánh sáng quá mức. Các nhà nghiên cứu tin rằng tiếp xúc ánh sáng vào ban đêm làm hạn chế quá trình tổng hợp melatonin hoặc tăng quá trình sản sinh cortisol, về lâu dài có thể dẫn đến ung thư vú, ung thư ruột kết, trực tràng và ung thư tuyến tiền liệt.
Dù chưa xác định được chính xác lượng ánh sáng tiếp xúc về đêm bao nhiêu thì được xem là quá mức, nhưng các nhà khoa học có thể đưa ra khẳng định về những căn bệnh liên quan đến ánh sáng thường phổ biến ở những xã hội công nghiệp hóa. Một nghiên cứu của Đại học Haifa, Israel, kết luận rằng phụ nữ sống ở những vùng đô thị nhiều ánh sáng nhân tạo có nguy cơ mắc bệnh ung thư cao hơn 73% so với những phụ nữ ở những nơi tận dụng chiếu sáng tự nhiên. Nghiên cứu này so sánh ung thư vú với ung thư phổi thì nhận thấy ô nhiễm ánh sáng gia tăng khả năng ung thư vú nhưng không làm tăng khả năng ung thư phổi. Hiện nay Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã liệt kê “hoạt động trong ngày liên quan đến rối loạn nhịp sinh học” là một nhân tố gây ung thư.
Biện pháp giảm thiểu
- Sử dụng đèn có lồng cách nhiệt và giảm công suất chiếu sáng ngoài trời. Bóng đèn có lồng cách nhiệt (thường là lồng kính) tốn ít công suất và giúp tiết kiệm năng lượng, chi phí và giảm thiểu dấu chân sinh thái.
- Chỉ bật những bóng đèn thực sự cần thiết.
- Sử dụng đèn với các chức năng như hẹn giờ, làm mờ đèn hoặc chức năng kiểm soát cường độ ánh sáng đối với những không gian không cần chiếu sáng nhiều. Tắt các thiết bị chiếu sáng không cần thiết.
- Hạn chế ánh sáng trong phòng ngủ vào ban đêm.
Theo SKĐS
Huyết áp thấp nguy hiểm không kém tăng huyết áp!
Ở người bình thường, huyết áp trung bình là 120/80mmHg, nếu thấp hơn chỉ số này thì được coi là huyết áp thấp. Nhiều người cho rằng, huyết áp thấp không đáng ngại nhưng đây là quan điểm sai lầm vì huyết áp thấp cũng có thể gây ra một số biến chứng nguy hiểm không khác gì với bệnh tăng huyết áp, vì vậy không được chủ quan mà cần hết sức cảnh giác và đề phòng.
Thiếu máu não; nhồi máu não là biến chứng nguy hiểm của huyết áp thấp.
Vì sao bị huyết áp thấp?
Ở người bình thường có chỉ số huyết áp trung bình bằng 120/80mmHg, vì vậy người trưởng thành nào mà có chỉ số huyết áp thấp hơn huyết áp trung bình (lúc nghỉ ngơi thoải mái) thì có thể gọi là huyết áp thấp, tức là dưới 120/80mmHg, nặng hơn là dưới 90/60mmHg. Tuy nhiên để đánh giá có bị huyết áp thấp hay không phải được đo huyết áp đúng quy định và phải là người biết đo huyết áp, đây là tiêu chuẩn hết sức quan trọng. Bởi vì một số người có quan niệm sai là ai cũng có thể đo huyết áp hoặc tin tưởng tuyệt đối vào chỉ số đo của máy đo huyết áp điện tử. Máy đo điện tử cần phải xem xét, đánh giá cẩn thận, ví dụ như là loại máy nào, do đâu sản xuất và tình trạng có luôn được kiểm chứng với chỉ số đo huyết áp của máy thủy ngân hay không hoặc tình trạng pin còn tốt hay không... Có nhiều nguyên nhân gây nên bệnh huyết áp thấp như rối loạn chức năng tuyến thượng thận, tuyến yên, tuyến giáp gây thiếu hụt hormon tuyến giáp hoặc do giảm glucoza máu và cũng có thể do thiếu hụt hemoglobin gây nên hiện tượng huyết áp thấp. Hemoglobin là chất có nhiệm vụ vận chuyển ôxy đến các cơ quan trong cơ thể trong đó có cơ tim và tổ chức não, khi hàm lượng hemoglobin giảm dưới mức 9g/dl thì sẽ gây thiếu hụt lượng ôxy (hàm lượng hemoglobin trong máu ở người bình thường: nam giới là 13,5 - 17,5g/dl và nữ giới là 11,5 - 15,5g/dl). Huyết áp thấp còn gặp ở những người bị bệnh về tim mạch, béo phì, đái tháo đường, di truyền, làm việc quá sức, người gầy yếu và có thể do stress. Một số người cao tuổi bị chứng huyết áp thấp do chế độ ăn uống thất thường. Ăn với số lượng ít hoặc các bữa ăn cách xa nhau quá, thậm chí bỏ bữa hoặc ngại uống nước, ngại ăn canh, rau, quả... làm cho chất lượng máu bị giảm (giảm cả thể tích máu và cả chất lượng máu). Ăn uống kém tức là dinh dưỡng kém sẽ ảnh hưởng đến trương lực cơ tim, trương lực thành mạch, ảnh hưởng đến lưu lượng máu đến nuôi dưỡng các cơ quan, đặc biệt là tim và não bộ gây nên hiện tượng huyết áp thấp. Ngoài ra những người ít vận động hoặc lười vận động do bệnh tật, do thói quen hoặc do đặc thù của nghề nghiệp phải ngồi lâu hằng giờ một chỗ (những người đang phải làm việc)... cũng là những nguyên nhân gây huyết áp thấp. Tuy nhiên cũng có những trường hợp huyết áp thấp chưa xác định được nguyên nhân.
Nhận diện chứng huyết áp thấp
Khi bị chứng huyết áp thấp thường biểu hiện tim đập nhanh, hoa mắt mỗi khi ngồi xuống đứng lên, các biểu hiện tăng dần theo năm tháng và khi nặng có thể ngoài hoa mắt, chóng mặt còn có thể buồn nôn, biểu hiện của rối loạn tuần hoàn não (thiểu năng tuần hoàn não do lượng máu không cung cấp đủ cho não bộ để hoạt động). Huyết áp thấp kéo dài có thể đưa đến một số biến chứng như thiếu máu cơ tim gây đau thắt ngực, thậm chí nhồi máu cơ tim. Huyết áp thấp cũng có thể làm ảnh hưởng đến chức năng của mọi cơ quan như tim, thận, phổi và tổ chức thần kinh. Huyết áp thấp không được điều trị có thể dẫn đến thiếu máu não gây nhũn não, nhồi máu não là những biến chứng cực kỳ nguy hiểm đến tính mạng của người cao tuổi.
Thiếu hụt hemoglobin gây huyết áp thấp.
Phòng chứng huyết áp thấp nên làm gì?
Khi nghi ngờ bị huyết áp thấp trước tiên phải đi khám bệnh để được chẩn đoán chính xác, nhất là người cao tuổi lại có mắc các bệnh mạn tính về tim mạch, đái tháo đường. Khi được bác sĩ khám bệnh chẩn đoán chắc chắn và chỉ định điều trị thì nên tuân thủ một cách nghiêm túc. Ngoài việc điều trị theo đơn của bác sĩ cần có chế độ ăn uống và sinh hoạt hợp lý. Cần ăn đủ số lượng trong mỗi bữa ăn và tốt nhất là ăn đủ lượng và chất. Mỗi ngày nên uống đủ lượng nước cần thiết (khoảng từ 1,5 - 2,0 lít/ngày), nên ăn nhiều rau, uống thêm nước hoa quả như cam chanh, xoài... Nếu có điều kiện có thể uống cà phê mỗi buổi sáng sau khi ăn sáng. Nếu không có các bệnh về tim mạch, đường ruột, đái tháo đường có thể mỗi bữa ăn có thể uống một ly nhỏ rượu vang đỏ. Nên có thói quen ăn đúng giờ và không nên bỏ bữa. Ngoài việc ăn uống hợp lý thì chế độ sinh hoạt thích hợp cũng đóng góp không nhỏ trong việc làm cho huyết áp tăng lên một cách hợp lý, nên vận động cơ thể hằng ngày bằng nhiều hình thức khác nhau (đi bộ, tập thể dục...) và tuỳ theo điều kiện của từng người. Nếu sức khỏe không tốt, đi lại khó khăn có thể vận động, đi lại trong nhà. Hằng ngày nên tự xoa bóp các khớp xương, cơ bắp, nếu không tự làm được thì cần có sự hỗ trợ của người nhà.
Theo SKĐS
Xơ vữa động mạch ở người cao tuổi Xơ vữa động mạch (XVĐM) là một trong những nguyên nhân gây nên các bệnh về tim mạch như tăng huyết áp, nhối máu cơ tim, thiểu năng mạch vành, đột quỵ... bệnh thường gặp nhất ở người cao tuổi (NCT). Đây là hiện tượng thành lòng động mạch bị xơ cứng, hẹp lại, tắc cục bộ gây biến chứng nguy hiểm. XVĐM...