Nữ giảng viên 8X vượt qua cái khó của ‘người tìm đường’
Trong 15 năm giảng dạy, cô Hằng gặp không ít sinh viên giỏi, thậm chí có những kỹ năng vượt trội hơn giảng viên. Nhưng cô lại cho đó là điều bình thường, bởi “ngay như huấn luyện viên Park Hang-seo cũng không thể đá bóng giỏi bằng Quang Hải”.
Không phải là tiết dạy với hình ảnh cô giáo đứng thao thao trên bục, cô đọc, trò chép, trong tiết dạy của cô Lê Thị Hằng (Trưởng Bộ môn Truyền thông Đa phương tiện, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông), sinh viên luôn được làm chủ bài học.
Sau khi trình bày giúp học trò nắm vững lý thuyết, phần lớn thời gian nữ giảng viên “lùi lại phía sau” để chăm chú lắng nghe những điều sinh viên ứng dụng trong bài thực hành.
Cho rằng “đó có thể không phải là một tiết học chỉn chu”, nhưng theo cô Hằng, “trong các bài thể hiện của sinh viên, dù có đôi chỗ còn lúng túng, chưa thật trúng vấn đề hay vượt quá thời gian trình bày, nhưng hơn hết các em đã được học thật, làm thật”.
Cô Hằng luôn giữ vai trò là cố vấn cho sinh viên
Cái khó của người ‘tìm đường’
Cô Lê Thị Hằng vốn được biết tới là một trong những người đặt “nền móng” cho ngành Truyền thông Đa phương tiện tại Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông. Từng có thời gian làm thạc sĩ và tiến sĩ tại Pháp, cô có cơ hội chứng kiến sự nhen nhóm và phát triển của ngành Truyền thông Đa phương tiện tại nước bạn.
Vì thế, khi trở về công tác tại Học viện, cô được giao trọng trách tham gia soạn thảo khung chương trình Truyền thông Đa phương tiện – một ngành học còn khá mới mẻ tại Việt Nam vào thời điểm ấy.
“Nhiệm vụ của chúng tôi khi đó thực sự khó khăn vì Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông là một trong những cơ sở đi đầu. Trong khi đó, thế giới đã phát triển việc đào tạo ngành này cách chúng ta khoảng hơn chục năm với các tên gọi khác nhau”, cô Hằng nói.
Chương trình, tài liệu hầu như không có. Vì thế vào thời điểm ấy, ngoài giờ lên lớp, cô cùng cộng sự phải dành phần lớn thời gian để tham khảo, nghiên cứu tài liệu nước ngoài. Bên cạnh đó, nhóm cũng phải đi “gõ cửa” từng doanh nghiệp, công ty truyền thông để khảo sát nhu cầu và xin nhận xét, góp ý.
“Tổ soạn thảo đã phải tham khảo chương trình của không dưới 25 trường đại học tại Mỹ, Úc, Pháp, Đức,… về truyền thông đa phương tiện để xem thế giới đã đi đến đâu và họ đang dạy những gì. Từ đó, nhóm đã tìm ra những môn học chung nhất, kết hợp với nhu cầu thực tế của Việt Nam và nguồn lực của Học viện để thiết kế chương trình đào tạo phù hợp.
May mắn, đến năm 2016, trường bắt đầu đi vào tuyển sinh ngành học này với tổng số tín chỉ là 125, trong đó có 40 tín chỉ đạo tạo các môn học đại cương, 75 tín chỉ đào tạo chuyên ngành, 10 tín chỉ cho thực tập và khóa luận tốt nghiệp”, cô Hằng nhớ lại.
Video đang HOT
TS. Lê Thị Hằng, Trưởng bộ môn Truyền thông Đa phượng tiện, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông.
Quá trình xây dựng chương trình với cô Hằng cũng có rất nhiều kỷ niệm. Điển hình như việc khi đưa chương trình khung ra trước hội đồng, nhiều môn học được chuyên gia nhận xét “có vẻ Tây quá, cần phải Việt hóa lại”.
Vì thế, nhóm đã phải rất “khổ sở” chỉ để… đặt được tên cho một môn học sao cho phù hợp.
“Không phải môn học nào cũng dễ dàng dịch ngược sang tiếng Việt dù có thể môn đó rất phổ biến ở nước ngoài. Ví dụ như môn Storytelling, hiện nhóm đang phải tạm đặt là môn Nghệ thuật kể chuyện sau rất nhiều lần “nâng lên đặt xuống’”.
Sinh viên giỏi hơn giảng viên: Chuyện bình thường!
Việc giảng dạy cho sinh viên cũng không phải lúc nào cũng thuận lợi. Có những khi giảng lý thuyết, sinh viên “gật gù tỏ vẻ rất hiểu”, nhưng sau khi bắt tay vào thực hành, học trò lại sáng tạo ra những câu chuyện hết sức ngô nghê, thậm chí khiến giáo viên phải bật cười.
Ví dụ, khi dạy môn Nghệ thuật kể chuyện, cô giáo yêu cầu sinh viên trước khi sáng tạo câu chuyện truyền thông cần phải nắm được mục tiêu, đối tượng mình hướng tới trước khi xác định bối cảnh, nhân vật, đỉnh cao mâu thuẫn,…
Dù lý thuyết là vậy, nhưng khi áp dụng vào thực tiễn, sinh viên vẫn loay hoay.
“Có sinh viên đi thực tập tại một ngân hàng. Em được ‘đặt hàng’ phải sáng tạo nội dung với chủ đề nhân ngày 20/10 nhằm hỗ trợ các chị, các mẹ vay vốn. Nhưng sinh viên này lại sáng tạo câu chuyện trong bối cảnh ở… Scotland, đàn ông mặc váy, phụ nữ cầu hôn đàn ông mà không có sự liên quan gì đến đối tượng cần thuyết phục vay vốn. Em về tâm sự rằng mình đã sáng tạo ra câu chuyện rất hay nhưng vẫn không được ban lãnh đạo duyệt”.
Những lúc như vậy, cô Hằng lại đóng vai trò là người cố vấn nhằm chỉ ra những điểm còn thiếu sót trong cách xử lý vấn đề của học trò.
Cô Lê Thị Hằng vốn được biết tới là một trong những người đặt “nền móng” cho ngành Truyền thông Đa phương tiện
Dù vậy, nữ giảng viên sinh năm 1980 cũng phải thừa nhận, thầy cô giáo thời 4.0 có rất nhiều cái khó, bởi có những thứ thầy cô tìm được trên internet thì sinh viên cũng có thể tìm được.
“Bây giờ nguồn tài liệu đều là dữ liệu mở. Vì vậy, vai trò của giảng viên giờ đây rất khác. Nếu như trước, giáo viên phải lên bảng giảng bài rất nhiều thì hiện tại, cái khó của người thầy là sinh viên có thể tự đọc, tự tìm hiểu. Do đó, giáo viên phải ‘chuyển mình’ ở mức cao hơn, không thể đứng yên một chỗ mà phải liên tục thay đổi và cập nhật tình hình mới”.
Thậm chí, theo cô Hằng, sinh viên giờ đây rất giỏi và sáng tạo. Có những em ngay từ năm nhất đã có thể đi làm và “làm không hết việc”.
“Có bạn học xong môn Kỹ thuật nhiếp ảnh đã ra mở studio hay chuyên chụp cho giới showbiz, hoa khôi, hoa hậu. Các em có thể có kỹ thuật tốt, nhưng khi vào trường sẽ được học bài bản hơn về bố cục, nội dung hay những xu hướng và cả những điều thị trường đang cần”.
Cô Hằng cũng cho rằng, chuyện sinh viên vượt trội hơn giảng viên ở một số kỹ năng cũng là điều bình thường, bởi ngay như huấn luyện viên Park Hang-seo cũng không thể đá bóng giỏi như Quang Hải. Tuy nhiên, vai trò của giảng viên hay huấn luyện viên là họ phải nhìn thấy bức tranh toàn cảnh và có thể đưa ra định hướng tốt cho học trò.
“Thầy cô sẽ dạy các em phương pháp, kỹ thuật kể chuyện. Nhưng có kể được hay không lại thuộc về khả năng lĩnh hội và năng khiếu của từng người.
Có những bạn sáng tạo rất hay mà đôi khi, thầy cô là người hướng dẫn cũng chưa chắc đã làm được như thế. Đó là điều hết sức bình thường. Tôi thấy mừng khi có những sinh viên giỏi như thế. Và chính thầy cô cũng phải học hỏi rất từ những sinh viên này”, cô Hằng chia sẻ.
Với cương vị là Trưởng bộ môn Truyền thông Đa phương tiện, Tổ trưởng Tổ soạn thảo Chương trình đào tạo đại học ngành Truyền thông Đa phương tiện, TS. Lê Thị Hằng đã có nhiều đóng góp trong việc xây dựng và phát triển ngành đào tạo mới của Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông.
TS. Lê Thị Hằng được đề cử là một trong 41 cá nhân điển hình tiên tiến dự Đai hoi thi đua yeu nuoc Bộ Thông tin và Truyền thông lần thứ IV. Đại hội diễn ra tại Nhà hát Lớn Hà Nội vào ngày 12/10.
Xóa bỏ bạo lực giới nơi giảng đường đại học
Mới đây, đại diện bộ GD&ĐT, đại diện UN Women cùng các trường đại học ký cam kết chủ đề "Khuôn viên trường đại học an toàn, không bạo lực với nữ sinh và giảng viên.
Cụ thể, ngày 10/10, lễ phát động hưởng ứng tháng hành động về bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới trong lĩnh vực giáo dục được tổ chức với chủ đề "Khuôn viên trường đại học an toàn, không bạo lực với nữ sinh và giảng viên".
Đây là hoạt động hướng ứng tháng hạnh động về bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó bạo lực giới trong lĩnh vực giáo dục, do bộ GD&ĐT phối hợp cùng cơ quan Liên Hợp Quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền cho phụ nữ (UN Women) tổ chức tại trường đại học Sư phạm Thể dục, Thể thao Hà Nội.
Sự kiện nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc xây dựng môi trường học tập an toàn, lành mạnh, thân thiện, trong đó, có khuôn viên trường đại học không có bạo lực đối với mọi thành viên trong trường.
Lễ phát động hưởng ứng tháng hành động về bình đẳng giới và phòng ngừa, ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới trong lĩnh vực giáo dục.
Phát biểu khai mạc chương trình, bà Lê Thị Hằng, Phó Vụ trưởng vụ Giáo dục chính trị và công tác học sinh, sinh viên (bộ GD&ĐT) nhấn mạnh: "Bạo lực học đường trên cơ sở giới có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe thể chất, tinh thần và kết quả học tập, lao động của học sinh, sinh viên, giảng viên và cán bộ nhân viên trong trường.
Về lâu dài, những hành vi bạo lực như vậy có thể sẽ ảnh hưởng xấu đến chất lượng nguồn nhân lực và sự phát triển của đất nước. Vì vạy, cần xây dựng môi trường học tập an toàn, thân thiện và không bạo lực luôn là nhiệm vụ quan trọng, hàng đầu của ngành giáo dục".
Bà Lê Thị Hằng, Phó Vụ trưởng vụ Giáo dục chính trị và công tác học sinh, sinh viên.
Tại lễ phát động, hơn 300 đại biểu cũng có cơ hội tham gia đối thoại, giao lưu với diễn giả, đại diện bộ GD&ĐT, đại diện của UN Women về chủ đề này. Các lãnh đạo, chuyên gia đã giải đáp những câu hỏi vô cùng thiết thực đến từ chính các bạn sinh viên về bạo lực trên cơ sở giới trong lĩnh vực giáo dục.
Bà Elisa Fernandez Saenz, Trưởng đại diện UN Women tại Việt Nam khuyến nghị các trường và ngành giáo dục thực hiện 10 hành động thiết yếu được khuyến cáo trên toàn cầu bởi UN Women để xây dựng môi trường học tập an toàn, thân thiện và không bạo lực.
Những thắc mắc của sinh viên được các chuyên gia, diễn giả giải đáp.
Bên cạnh đó, bà Elisa Fernandez Saenz cũng chia sẻ thêm về ký ức thời học sinh, sinh viên liên quan đến bạo lực giới, khi chính bà được trải nghiệm câu chuyện đó. Điều này nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình từ phía sinh viên.
PGS.TS Trần Thành Nam (trường đại học Giáo dục, đại học Quốc gia Hà Nội) cũng chia sẻ đến hàng trăm sinh viên trường đại học về những nội dung cơ bản liên quan đến quấy rối tình dục và bạo lực giới. Đồng thời, vị diễn giả cũng giải đáp kịp thời những băn khoăn, thắc mắc của sinh viên.
Các đại biểu tham gia ký cam kết.
Trong khuôn khổ chương trình, đại biểu và hàng trăm sinh viên cùng tham gia ký cam kết "Khuôn vien trường đại học an toàn, không bạo lực với nữ sinh viên, giảng viên và cán bộ nhân viên", nhằm thể hiện sự quyết tâm chung tay đảm bảo môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, phòng chống bạo lực trên cơ sở giới, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và xóa bỏ bạo lực giới.
Tại một số trường học, còn xảy ra các hành vi bạo lực giới dưới những hình thức khác nhau như cô lập, tẩy chay, phân biệt đối xử, bắt nạt, rình rập, quấy rối, tấn công tình dục và thậm chí là bạo lực hẹn hò. Trong một số khảo sát quốc gia vào năm 2017 của UNESCO về bạo lựuc học đường trên cơ sở giới tại Việt Nam, 51,9% học sinh tahm gia khảo sát đã trai qua ít nhất một hình tưhusc bạo lực trong vòng 6 tháng gần nhất. Trong đó, hơn 70% học sinh tham gia khảo sát thuộc nhóm thiểu số tính dục (LGBTQI) báo cáo là đã từng bị bạo lực lời nói và xâm hại thể chất.
9 vấn đề làm nên thành tích vượt bậc của Đại học Tôn Đức Thắng Đóng góp lớn nhất cho sự phát triển của Trường trước hết là thầy Hiệu trưởng. Thầy là người có năng lực, có tài, có tâm huyết, được đào tạo ở trong và ngoài nước. LTS: Tiến sĩ Nguyên Văn Quán hiện đang là chủ tịch Hội đồng khoa học và đào tạo - Khoa môi trường và Bảo hộ lao động của...