Nỗi niềm giáo viên cắm bản – Bài 2: ‘Gieo chữ’ dưới chân dãy Giăng Màn
Cuộc sống của người giáo viên nhiều lúc khó khăn, nhưng con đường đến trường của trẻ em dân tộc Chứt ở bản Rào Tre (xã Hương Liên, Hương Khê, Hà Tĩnh) suốt hàng chục năm qua chưa bao giờ đứt đoạn.
Hành trình gieo chữ của những giáo viên cắm bản cheo leo như chính dãy núi Giăng Màn – nơi đóng chân của điểm trường bản Rào Tre, Trường mầm non Hương Liên.
Điểm trường Rào Tre.
Cô không đón thì học sinh không đến trường
Sớm tinh mơ, vượt quãng đường ngoằn ngoèo, hun hút từ TP Hà Tĩnh lên xã miền núi Hương Liên, huyện Hương Khê, chúng tôi đặt chân đến dãy Giăng Màn khi mây vẫn còn vương vấn lưng chừng núi. Đó cũng là lúc 2 giáo viên “cắm bản” Hoàng Thị Hương và Lê Thị Thành (Trường mầm non Hương Liên, điểm trường bản Rào Tre) tất bật dọn dẹp, nấu ăn rồi nhanh chân đến từng nhà đón học sinh đến trường.
Cái se lạnh của những ngày đầu đông như đối lập với trái tim nóng bỏng chất chứa yêu thương của 2 nữ giáo viên “cắm bản”. Trên chiếc xe máy cũ kỹ, men theo con đường bê tông ướt nhoẹt lấm đầy bùn đất, hai cô giáo vượt quãng đường hơn 3km mới đến được nhà của học sinh ở bản mới – khu tái định cư bản Rào Tre.
Trên quãng đường đó, hai cô phải dừng chân trước nhà một số hộ dân hô vọng vào: Bố mẹ gọi cháu dậy rửa mặt để chuẩn bị đi học nhé. Dặn dò cẩn thận, cô tiếp tục nổ máy đi tiếp. “Cô nói vậy nhưng chưa chắc phụ huynh đã làm theo”, cô Lê Thị Thành ngoái đầu sang nói nhỏ với chúng tôi.
Nhà em Hồ Viết Tú (5 tuổi), Hồ Quốc Vương (3 tuổi) ở cuối bản. Cô giáo đến, Vương chạy lon ton theo mẹ dưới bếp nhưng Tú còn ngái ngủ trên nhà sàn. Cô Thành nhanh chân lên nhà mặc quần áo, lau mặt, đỡ Tú xuống cầu thang, tiếng khóc thút thít đeo bám mãi. “Hộ này bố mẹ đang trẻ, muốn chở con đi học cho cô đỡ vất vả nhưng khổ nỗi nhà nghèo, không có phương tiện”, cô Lê Thị Thành nói.
Cách đó 1 nhà, bước chân thành thục, cô Hoàng Thị Hương đến hỗ trợ bà của em Hồ Quốc Nguyên (3 tuổi) và Hồ Hoài Ly (4 tuổi) vệ sinh cho 2 em, rồi cô Hương đỡ 2 chị em lên xe máy. “Hai em này ở nhà với bà, bố bị ốm, mẹ đi viện chăm bố. Cuộc sống dân bản đang nghèo, thiếu thốn đủ thứ”, cô Hương chia sẻ.
Giáo viên ở bản Rào Tre vẫn tự đưa đón học sinh đến trường.
“Dẫu biết giáo viên ở điểm trường Rào Tre rất khó khăn nhưng điều kiện kinh tế của xã rất hạn chế nên không có chế độ hỗ trợ gì thêm, chỉ khi nào có đoàn thiện nguyện, địa phương đều ưu tiên, hướng nhà tài trợ, trợ giúp cơ sở vật chất, thiết bị cho điểm trường. Địa phương mong muốn được cơ quan chức năng, nhà tài trợ hỗ trợ phương tiện để đưa đón học sinh mầm non và tiểu học ở bản Rào Tre đến trường. Bởi vào ngày mưa rét, học sinh tiểu học và mầm non không chịu được thời tiết khắc nghiệt nên nghỉ học rất nhiều. Giáo viên cũng hết sức cơ cực”, Chủ tịch UBND xã Hương Liên Đinh Văn Sánh chia sẻ.
Điểm trường bản Rào Tre có 12 cháu nhưng chỉ có 2 cháu gần nhà nên bố mẹ đi bộ đưa đến lớp, còn lại 10 cháu cô giáo phải đến tận nhà đưa, đón. Ngày 2 lượt, đều như vắt chanh. Trước đây khi chưa tổ chức bán trú, giáo viên “cắm bản” ở Rào Tre phải đưa, đón 4 lượt cả đi lẫn về.
Đến trường được ăn những bữa ăn ngon hơn và được cô giáo dạy nhiều điều bổ ích nên trẻ Rào Tre thích được đến lớp. Nhưng sự háo hức của trẻ dường như chưa thay đổi được suy nghĩ của bố mẹ chúng. “Bố mẹ trẻ còn gọi con dậy, chuẩn bị cho con rồi chờ cô đến đón, chứ những ông bố bà mẹ tuổi trên 30 là phó mặc cho cô. Việc học của con họ là trách nhiệm của cô, họ nghĩ vậy”, cô Hương cho hay.
Để thay đổi cách nghĩ, cách làm của dân bản, giáo viên ở điểm trường bản Rào Tre nhiều lần làm phép thử không đón trẻ để phụ huynh quan tâm hơn, nhưng rồi đâu lại vào đấy. Cô không đón thì học sinh không đến trường. “Chỉ tính tiền xăng xe thôi cũng đủ nhiều rồi chưa nói đến công sức, thời gian bỏ ra, tôi thực sự khâm phục 2 cô”, một cán bộ biên phòng thuộc Tổ công tác bản Rào Tre bày tỏ.
Điều băn khoăn ở điểm trường bản Rào Tre là không có bất cứ một khoản thu nào. Cô giáo tự bỏ tiền xăng xe đưa đón, và còn mua thêm thức ăn ngoài phần hỗ trợ để bổ sung dinh dưỡng cho các cháu. Trẻ em dân tộc Chứt ở Rào Tre được hỗ trợ tiền ăn bán trú mỗi ngày 16 nghìn đồng/em, riêng ăn sáng được tài trợ mỗi em 5 nghìn đồng/ngày. Các cô phải xin thêm quần áo, làm tất cả các loại hồ sơ, giấy tờ thay phụ huynh, từ giấy khai sinh, hộ khẩu, học bạ đến hồ sơ nhận tiền ăn…
Video đang HOT
Các cô tự ứng tiền ăn trước cho học sinh, đến cuối quý hoặc cuối kỳ mới làm hồ sơ quyết toán, có phụ huynh sau khi ký nhận tiền ăn của con còn xin cô luôn, thấy thương nên cô không nỡ lấy.
Cô Lê Thị Thành mới về điểm trường Rào Tre công tác 2 năm nhưng đã thấm được nỗi nhọc nhằn nghề gieo chữ ở đất này. Còn với cô Hương, hơn 23 năm “cắm bản”, cô đã trải qua rất nhiều gian truân.
Nỗi niềm 23 năm cắm bản
Năm 1999, cô Hoàng Thị Hương tình nguyện về bản Rào Tre dạy chữ cho học sinh mầm non người Chứt. Lớp học lúc ấy phải ở tạm nhà dân, lớp không một bóng học sinh. Cô Hương cùng bộ đội biên phòng phải nhờ già làng Hồ Púc đi cùng đến từng nhà thuyết phục phụ huynh, đưa các cháu đến lớp học. Suốt buổi học, già Hồ Púc ngồi chờ bên ngoài, cuối buổi cô giáo Hương lại cùng ông đưa từng cháu về nhà. Phải mất gần 2 năm trời phụ huynh quen mặt, cô giáo Hương mới có thể tự mình đảm đương công việc mà lẽ ra là thuộc trách nhiệm của phụ huynh.
Rào Tre bây giờ đổi khác nhiều, đã có chiếc cầu bắc qua con sông Ngàn Sâu hung dữ. Nhờ sự chung tay của cả cộng đồng, điểm trường Rào Tre lúc này đã khang trang, tiện nghi hơn hẳn.
Người Chứt ở Rào Tre không có ngôn ngữ viết mà chỉ có tiếng nói. Thông qua giao tiếp, học hỏi, cô Hương đã thành thục thổ ngữ của đồng bào nơi đây. 23 năm “cắm bản” dường như cô giáo Hương đã trở thành một thành viên không thể tách rời khỏi Rào Tre. Suốt hơn 23 năm cống hiến cho sự học ở bản Rào Tre, cô giáo Hoàng Thị Hương nhận được rất nhiều thành tích.
Năm 2015, cô giáo Hoàng Thị Hương được Bộ Giáo dục và Đào tạo tặng Bằng khen điển hình tiên tiến giai đoạn 2010-2015. Năm học 2018-2019, cô được Bộ Giáo dục và Đào tạo tặng Bằng khen về thành tích xuất sắc trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ mầm non. Năm 2020, cô được Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tặng Bằng khen do có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua yêu nước của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam giai đoạn 2015-2020. Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hà Tĩnh đã lựa chọn và giới thiệu cô giáo Hoàng Thị Hương tham dự chương trình tôn vinh điển hình tiên tiến phụ nữ toàn quốc năm 2022.
Giáo viên ở bản Rào Tre không chỉ dạy chữ còn kiêm cả “cô nuôi”.
Nói về chế độ tiền lương, cô Hương kể, 10 năm đầu cô chưa được biên chế, địa phương trả bằng lúa, sau đó mỗi tháng 20 nghìn đồng rồi tăng lên 50 rồi 70 nghìn đồng… Hiện nay, cô Hoàng Thị Hương đã có bằng đại học (tốt nghiệp năm 2010) nhưng vẫn hưởng lương bậc cao đẳng (bậc 7). Tương tự, cô Lê Thị Thành tốt nghiệp đại học năm 2019 và hiện đang hưởng lương trung cấp (bậc 2). Theo Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Tĩnh, hiện nay, 2 giáo viên Hoàng Thị Hương và Lê Thị Thành đang được hưởng đầy đủ 3 chế độ phụ theo quy định: Chế độ phụ cấp dạy lớp ghép, dạy tăng cường tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số theo Nghị định 105/2020/NĐ-CP ngày 8/9/2020 của Chính phủ; chế độ cho cán bộ, công chức, viên chức công tác tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn theo Nghị định 116/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ; chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo, cán bộ quản lý công tác tại vùng đặc biệt khó khăn (theo quy định tại Nghị định 19/2013/NĐ-CP ngày 23/12/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 61/2006/NĐ-CP ngày 20/6/2006).
Chúng tôi rời bản Rào Tre khi ánh chiều dần xa sau vách núi, cô Hương, cô Thành đã trả trẻ về tận nhà, nhưng sau đó vẫn quay lại trường dọn dẹp, chuẩn bị tươm tất cho buổi học ngày mai. Trời tối hẳn, 2 giáo viên “cắm bản” mới được trở về nơi ở của mình. Trên đường, lời tâm sự của cô Hoàng Thị Hương, khiến tôi trăn trở mãi: “Con gái chị tốt nghiệp đại học, ngành giáo dục mầm non, ra trường về quê thi viên chức năm lần bảy lượt, nhưng giờ vẫn làm giáo viên hợp đồng. Có lẽ con gái chị lại “nối nghiệp” nhọc nhằn của mẹ…”.
(Còn nữa)
So bằng 'đôi đũa lệch' cho học sinh lớp ghép
Từ năm học 2022 - 2023, gần ba chục học sinh người Chứt tại Trường Tiểu học Hương Liên (Hương Khê, Hà Tĩnh) có thể tự tin học hòa nhập...
Bắt đầu từ năm học 2022 - 2023, học sinh người Chứt được học hòa nhập với học sinh toàn trường.
Để so bằng "đôi đũa lệch" kiến thức cho lớp học ghép là cố gắng không biết mệt mỏi của tập thể, cán bộ, giáo viên nơi đây, trong đó có dấu ấn của cô giáo Hoàng Thị Thưu.
Vào từng nhà đón học sinh đến trường
Từ thị trấn Hương Khê, vượt qua đoạn đèo gập ghềnh, cao ngút với quãng đường hơn 10km, chúng tôi có mặt tại Trường Tiểu học Hương Liên - một trong những trường khó khăn nhất của huyện miền núi Hương Khê.
Không còn cảnh vào tận bản, gõ từng nhà, chở từng học sinh người Chứt đi học, nhưng đều đặn mỗi buổi sáng cô giáo Hoàng Thị Thưu (SN 1971), vẫn nhẫn nại đứng ở cổng trường để đón học sinh vào lớp. Nhìn thấy cô giáo, các em vội chạy đến chào hỏi như gặp người thân. Đáp lại các em là nụ cười rạng rỡ và những lời động viên của cô. Nhìn nụ cười thân thiện của cô, ít ai nghĩ hành trình gieo chữ cho học sinh người Chứt của cô đã trải qua nhiều vất vả, gian khó đến vậy.
Năm 1998, cô Hoàng Thị Thưu được phân công dạy học tại Trường Tiểu học Hương Liên sau khi hoàn thành lớp Trung cấp Sư phạm cấp tốc. Từ đó, cô gắn bó với ngôi trường vùng cao này.
Cô Hoàng Thị Thưu - Giáo viên Trường Tiểu học Hương Liên, huyện Hương Khê (Hà Tĩnh).
Năm học 2014 - 2015, sau hội thảo về nâng cao chất lượng dạy học dân tộc Chứt, Phòng GD&ĐT Hương Khê đã chỉ đạo và cho phép nhà trường tổ chức lớp học ghép cho học sinh người Chứt. Lớp ghép sau đó được bố trí tại Trường Tiểu học Hương Liên với 2 nhóm lớp gồm: Lớp 1 - 2 và lớp 3 - 4 - 5. Sau đó một năm, cô Thưu được nhà trường phân công làm giáo viên chủ nhiệm lớp ghép 3 - 4 - 5.
Khác với lớp học bình thường, hành trình mỗi ngày lên lớp của cô Thưu bắt đầu từ lúc 4 - 5 giờ sáng. Không phải để đến trường mà phải vào tận bản, đến từng nhà, gõ cửa để đón học trò lên lớp.
Bản Rào Tre nằm bên thượng nguồn sông Ngàn Sâu, bị chia cắt với bên ngoài bằng con suối. Mùa khô đi lại thuận lợi, nhưng vào mùa mưa trở nên khó khăn và thách thức lòng kiên trì của giáo viên. Nhưng vượt qua khó khăn, gian truân, cô Thưu vẫn lặn lội đến nhà từng em để đưa tới trường.
Đều đặn mỗi buổi sáng cô Thưu vẫn nhẫn nại đứng ở cổng trường để đón học sinh người Chứt vào tận lớp.
Dạy trò bằng cái tâm
Cô Thưu cho hay, dạy học lớp ghép rất vất vả, dạy con em còn đồng bào khó hơn, nhưng nói đến dạy con em đồng bào ở bản Rào Tre thì khó khăn vạn lần. Dù đã hơn 30 năm về bản nhưng nhận thức của người Chứt còn hạn chế, việc cho con em học chữ không được quan tâm. Không chỉ trẻ em mà người lớn cũng e dè khi tiếp xúc với người ngoài.
"Thời gian đầu, khi tôi đến nhà các em không chịu gặp, không tiếp xúc nên mỗi buổi học có khi chỉ được 4 - 5 cháu. Để lớp học có đông học sinh hơn, ngoài việc giảng dạy, tôi phải đến tận nhà học sinh để tìm hiểu hoàn cảnh, đời sống cũng như phong tục tập quán, tiếng nói của các em. Nhiều khi mình phải vào tận giường, vệ sinh mặt mũi, thay quần áo, chuẩn bị cả bữa sáng cho trò", cô Thưu nhớ lại.
Khi các em dần quen với nền nếp, cô Thưu đã đề xuất với ban giám hiệu nhà trường phối hợp với Bộ đội Biên phòng bản Rào Tre sửa xe bị hư hỏng để các em chủ động phương tiện đi học. Theo đó, cứ hai em một xe, những học sinh lớp lớn chở các em lớp 1, 2 đi học.
Sau 2 tháng học chung, học sinh người Chứt đã bắt nhịp cùng chương trình học và hòa nhập với các bạn trong lớp.
Tận tình đến thế, nhưng không phải đứa trẻ nào cũng chịu đến lớp. Bọn trẻ lạ cô, sợ cô bắt đi mất. Đến lớp, thoắt cái chúng đã lẻn ra bìa rừng rồi đi thẳng về nhà. Nhiều lúc cô tá hỏa, sợ trò rơi xuống suối, nước cuốn trôi.
"Năm đầu tiên dạy lớp ghép, cũng là năm thực hiện phổ cập đúng độ tuổi. Trong lớp có em Hồ Kiều Trang bị khuyết tật bàn chân nên rất mặc cảm. Mỗi lần đến trường, em cứ đứng trước cổng không chịu vào.
Có hôm đang học, bị bạn trêu Trang lại bỏ về nửa chừng, nói thế nào cũng không chịu ở lại hay lên xe cô chở về. Tôi phải dắt xe máy đi bộ hàng cây số vừa động viên, vừa trò chuyện với Trang. Nhiều lần như thế, tôi cũng vận động được em đi học chuyên cần. Hiện giờ em là học sinh lớp 7 Trường THCS - THPT nội trú Hà Tĩnh. Mỗi lần cô trò gặp nhau, em vẫn nhắc lại câu chuyện kỷ niệm này", cô Thưu chia sẻ.
Ròng rã, hơn 2 tháng cùng với sự giúp đỡ của Bộ đội Biên phòng, cô Thưu dần được phụ huynh và học sinh tin yêu và mở lòng. Nhờ vậy, lớp học ghép từ 4 - 5 học sinh cũng dần rộn ràng hơn với đầy đủ sĩ số.
"Cô Thưu như người nhà của bản Rào Tre rồi. Cũng bởi cô xem học trò người Chứt như con, dạy cho nó chữ cái, biết tính toán... về còn bày lại cho bố mẹ nữa. Giờ cô Thưu nói gì không chỉ học sinh và phụ huynh cũng ưng cái bụng lắm", chị Hồ Thị Kiên (bản Rào Tre) hồ hởi nói.
Học sinh người Chứt đã có thể đọc tốt, chữ viết đẹp và tính toán tốt.
Một mình đóng "3 vai"
Do số lượng học sinh người Chứt mỗi độ tuổi thường ít, biên chế giáo viên của Trường Tiểu học Hương Liên lại hạn chế nên với các lớp ghép giáo viên phải dạy song song 2 hoặc 3 trình độ. Một tiết học, một người phải vào vai 3 giáo viên, 3 trình độ khác nhau là không đơn giản.
Lớp học của cô Thưu thường có 6 bộ bàn ghế, 2 bảng viết quay ngược vào nhau. Trong đó, một bảng viết được chia làm đôi để dạy ghép lớp 4 và 5. Cô Thưu bảo, để các em học hiệu quả, không ảnh hưởng lẫn nhau, cô chia mỗi lớp một hoạt động khác nhau. Ví dụ, khi lớp 3 làm đọc bài trên bảng, thì lớp 4 sẽ làm bài tập, lớp 5 sẽ học bài mới...
Những ngày đầu lên nhận lớp học, các hoạt động trên lớp chưa thu hút được sự tham gia của học sinh do vốn tiếng Việt hạn chế. Để tăng cường vốn tiếng Việt, cô Thưu vừa nói tiếng phổ thông, vừa phiên âm ra tiếng Chứt để giải thích, tập cho học sinh nói tiếng phổ thông từ những câu đơn giản nhất.
"Đã là giáo viên dạy lớp ghép, ngoài việc duy trì chuyên cần, người dạy phải tâm huyết, không ngại khó, ngại khổ, coi học sinh như con của mình; phải cảm hóa các em bằng tình cảm và sự yêu thương che chở, biết hy sinh mà không cần bồi đắp", cô Thưu tâm niệm.
Ngoài việc dạy chữ, dạy tính toán, cô Thưu còn chú ý rèn luyện, giáo dục các em kỹ năng sống, giao tiếp bằng tiếng Việt và dạy các em biết tự bảo vệ bản thân.
Nhờ nỗ lực nâng cao chất lượng lớp học ghép, sau mỗi năm học, học sinh của cô Thưu đã có thể giao tiếp gần như hoàn toàn bằng tiếng Việt. Các em có khả năng đọc tốt, chữ viết đẹp hơn cả học sinh người Kinh, lớp ghép luôn đứng đầu trong các đợt giao lưu chữ viết mà nhà trường tổ chức. Ngoài ra, trẻ còn thực hiện cộng, trừ, nhân chia khá tốt. Các em còn giao tiếp và hòa nhập, mạnh dạn tham gia các hoạt động văn nghệ, thể thao của ngành Giáo dục, đạt kết quả cao.
Tháng 5/2022, đoàn công tác của Vụ Giáo dục Tiểu học (Bộ GD&ĐT) có chuyến kiểm tra, khảo sát chất lượng dạy và học lớp ghép của cô Thưu. Qua dự giờ, đoàn đã bất ngờ trước khả năng đọc, viết, tính toán của học sinh trong lớp. Theo đó, đoàn đề nghị nhà trường xóa lớp ghép, đưa các em trở lại học chung với học sinh toàn khối.
Cũng từ năm học 2022 - 2023, lớp học ghép của Trường Tiểu học Hương Liên đã bị xóa bỏ. 22 em người Chứt được bố trí học chung theo từng khối với những học sinh trong nhà trường. Năm học này, cô Thưu được phân công chủ nhiệm lớp 4A1, trong đó có 3 em học sinh người Chứt. Nền tảng tốt từ lớp học ghép đã giúp các em dần bắt kịp chương trình học cùng bạn bè sau 2 tháng hòa nhập, kéo gần khoảng cách kiến thức giữa học sinh các vùng miền.
"Nhiều năm qua, lãnh đạo ngành Giáo dục địa phương luôn ghi nhận những tấm gương vươn lên những khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ như cô Hoàng Thị Thưu. Cô Thưu là tấm gương tiêu biểu của ngành Giáo dục Hương Khê về lòng yêu nghề, sự sáng tạo trong dạy và học, truyền cảm hứng tích cực cho học sinh và đồng nghiệp. Bản thân cô cũng nhiều năm liền là lao động tiên tiến của ngành Giáo dục huyện Hương Khê", ông Phan Quốc Thanh, Trưởng phòng GD&ĐT huyện Hương Khê chia sẻ.
Nghị lực của nữ sinh người Rục đầu tiên vào đại học Hơn 60 năm qua, kể từ ngày được Bộ đội Biên phòng Quảng Bình phát hiện và đưa ra khỏi hang đá, cuộc sống của người Rục (dân tộc Chứt) ở xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa đã có nhiều thay đổi. Được ở nhà kiên cố thay cho hang đá và con em họ được tới trường, học tập. Học sinh Cao...