Nợ quốc gia kỷ lục 34 nghìn tỉ USD của Mỹ sẽ gây tác động ra sao
Tổng nợ quốc gia của chính phủ Mỹ đã vượt qua mốc 34 nghìn tỷ USD – mức cao kỷ lục mọi thời đại, báo trước những thách thức chính trị và kinh tế nhằm cải thiện bảng cân đối kế toán của Mỹ trong những năm tới.
Đồng hồ hiển thị nợ công của Mỹ ở Manhattan, New York ngày 11/11/2023.
Bộ Tài chính Mỹ ngày 2/1 đã công bố báo cáo về tình hình tài chính của nước này, vốn đã trở thành nguồn cơn gây căng thẳng ở Washington, D.C., với tổng nợ của chính phủ liên bang vượt mức 34 nghìn tỷ USD.
Hồi tháng 6 năm ngoái, các nhà lập pháp đảng Cộng hòa và Nhà Trắng đã đồng ý về việc tạm thời dỡ bỏ giới hạn nợ quốc gia, ngăn chặn nguy cơ vỡ nợ lịch sử. Thỏa thuận này kéo dài đến tháng 1/2025.
Dưới đây là những câu hỏi về mức nợ quốc gia kỷ lục mới của Mỹ.
LÀM THẾ NÀO NỢ QUỐC GIA CỦA MỸ VƯỢT MỐC 34 NGÀN TỶ USD?
Nợ quốc gia của Mỹ đã vượt qua mốc 34 nghìn tỷ USD sớm hơn vài năm so với dự đoán trước đại dịch. Hồi tháng 1/2020, Văn phòng Ngân sách Quốc hội dự báo tổng nợ liên bang sẽ vượt quá 34 nghìn tỷ USD trong năm tài chính 2029.
Nhưng khoản nợ đã tăng nhanh hơn dự kiến do đại dịch kéo dài khiến phần lớn nền kinh tế Mỹ phải đóng cửa. Chính phủ đã vay mượn rất nhiều dưới thời Tổng thống Donald Trump và Tổng thống đương nhiệm Joe Biden để ổn định nền kinh tế và hỗ trợ phục hồi. Nhưng sự phục hồi đi kèm với lạm phát gia tăng đã đẩy lãi suất lên cao và khiến chính phủ phải trả chi phí tốn kém hơn để trả nợ.
Sung Won Sohn, Giáo sư kinh tế tại Đại học Loyola Marymount, cho biết: “Cho đến nay, Washington đã chi tiền như thể chúng tôi có nguồn lực vô hạn. Nhưng điểm mấu chốt là không có bữa trưa nào miễn phí… và tôi nghĩ viễn cảnh khá nghiệt ngã”.
Tổng nợ bao gồm số tiền mà chính phủ nợ chính mình (ví dụ: một số quỹ ủy thác liên bang đầu tư vào chứng khoán Kho bạc; Cơ quan An sinh Xã hội, Bộ Quốc phòng và Bưu điện Mỹ đều có khoản đầu tư vào nợ liên bang), vì vậy, hầu hết các nhà hoạch định chính sách đều dựa vào tổng số nợ từ bên ngoài để đánh giá tài chính của chính phủ. Con số này thấp hơn – 26,9 nghìn tỷ USD – gần bằng Tổng Sản phẩm quốc nội của Mỹ.
Tháng 6 năm ngoái, Văn phòng Ngân sách Quốc hội ước tính trong triển vọng 30 năm rằng nợ công sẽ lên mức kỷ lục, tương đương 181% GDP của Mỹ vào năm 2053.
Video đang HOT
Trụ sở Bộ Tài chính Mỹ ở Washington, D.C. Ảnh: AFP/TTXVN
TÁC ĐỘNG GÌ ĐẾN NỀN KINH TẾ?
Nợ quốc gia dường như không còn là gánh nặng đối với nền kinh tế Mỹ lúc này vì các nhà đầu tư sẵn sàng cho chính phủ liên bang vay tiền. Khoản cho vay này cho phép chính phủ tiếp tục chi tiêu cho các chương trình mà không cần phải tăng thuế.
Tuy nhiên, con đường nợ nần trong những thập kỷ tới có thể gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia và các chương trình lớn, bao gồm An sinh xã hội và Medicare, vốn đã trở thành động lực nổi bật nhất trong dự báo chi tiêu chính phủ trong vài thập kỷ tới. Sự rối loạn chức năng của chính phủ, chẳng hạn như một cuộc tranh cãi trần nợ khác, cũng có thể là một rủi ro tài chính nếu các nhà đầu tư lo lắng về việc các nhà lập pháp sẵn sàng trả nợ Mỹ.
Những quốc gia chủ nợ của Mỹ – như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia châu Âu – cũng đã cắt giảm lượng nắm giữ trái phiếu kho bạc Mỹ của họ.
Một phân tích của Peterson Foundation cho biết tỷ lệ nắm giữ nợ nước ngoài của Mỹ đạt đỉnh 49% vào năm 2011, nhưng giảm xuống 30% vào cuối năm 2022.
Michael Peterson, Giám đốc điều hành của Peterson Foundation, nhận định: “Trong tương lai, nợ sẽ tiếp tục tăng vọt khi Kho bạc Mỹ dự kiến sẽ vay thêm gần 1 nghìn tỷ USD vào cuối tháng 3. Việc tăng thêm hàng nghìn tỷ USD nợ nần từ năm này qua năm khác sẽ là một dấu hiệu cảnh báo đỏ cho bất kỳ nhà hoạch định chính sách nào quan tâm đến tương lai của đất nước chúng ta”.
NỢ CHÍNH PHỦ CÓ THỂ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NGƯỜI DÂN NHƯ THẾ NÀO?
Khoản nợ chính phủ tương đương khoảng 100.000 USD mỗi cư dân ở Mỹ. Nghe có vẻ nhiều, nhưng số tiền này cho đến nay dường như không đe dọa đến tăng trưởng kinh tế của Mỹ.
Thay vào đó, rủi ro sẽ là dài hạn nếu khoản nợ tiếp tục tăng lên những mức chưa từng thấy. Giáo sư Sohn cho biết gánh nặng nợ cao hơn có thể gây áp lực lên lạm phát và khiến lãi suất tiếp tục tăng cao, điều này cũng có thể làm tăng chi phí trả nợ quốc gia.
Và khi thách thức nợ ngày càng gia tăng, các lựa chọn với người dân có thể trở nên khó khăn hơn khi chi phí an sinh xã hội, Medicare và Medicaid ngày càng vượt xa nguồn thu từ thuế.
Shai Akabas, Giám đốc chính sách kinh tế tại Trung tâm Chính sách Lưỡng đảng, cho biết khi nào nợ có thể trở nên tồi tệ hơn, thì những hậu quả rất nghiêm trọng có thể xảy ra rất nhanh.
“Nó có thể có nghĩa là lãi suất tăng đột biến, có thể có nghĩa là một cuộc suy thoái dẫn đến nhiều người thất nghiệp hơn. Nó có thể dẫn đến một đợt lạm phát khác hoặc những điều bất thường với giá tiêu dùng”, ông Akabas nói.
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG HÒA VÀ DÂN CHỦ VỀ NỢ KHÁC NHAU NHƯ THẾ NÀO?
Các nhà lập pháp Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa bất đồng về những phương pháp để giảm nợ. Ảnh: AFP/TTXVN
Cả Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa đều kêu gọi giảm nợ, nhưng họ không đồng ý về phương pháp thích hợp để thực hiện việc đó.
Chính quyền Tổng thống Biden đang thúc đẩy tăng thuế đối với người giàu và các tập đoàn để giảm thâm hụt ngân sách, bên cạnh việc tài trợ cho chương trình nghị sự trong nước của mình. Ông Biden cũng tăng ngân sách cho Cơ quan Thuế vụ liên bang (IRS) để cơ quan này có thể thu các khoản thuế chưa nộp và giảm nợ hàng trăm tỷ USD trong 10 năm.
Trong khi đó, các nhà lập pháp Đảng Cộng hòa đã kêu gọi cắt giảm lớn các chương trình phi quốc phòng của chính phủ, bãi bỏ các khoản tín dụng và chi tiêu thuế năng lượng sạch được thông qua trong Đạo luật Giảm lạm phát. Nhưng đảng Cộng hòa cũng muốn cắt nguồn tiền từ IRS của chính quyền Biden và cắt giảm thuế hơn nữa. Cả hai điều này có thể khiến nợ chính phủ trở nên tệ hơn.
Người phát ngôn Nhà Trắng Michael Kikukawa đổ lỗi cho Đảng Cộng hòa, nói rằng khoản nợ tích lũy ổn định trong nhiều năm là “nợ nhỏ giọt – chủ yếu do các ‘món quà’ hết lần này đến lần khác của Đảng Cộng hòa dành cho các tập đoàn lớn và những người giàu có”.
Ngược lại, các nhà lập pháp Đảng Cộng hòa lại nói rằng việc vay mượn dưới thời chính quyền Tổng thống Biden đã góp phần khiến tỷ lệ lạm phát tăng đột biến vào năm 2022, kéo tỷ lệ ủng hộ tổng thống Đảng Dân chủ xuống.
Sự bứt phá của giá vàng báo hiệu suy yếu của đồng USD?
Giá vàng đã tăng vượt ngưỡng 2.100 USD/ounce vào ngày 4/12, đạt mức cao nhất mọi thời đại.
Điều này cho thấy tín hiệu gì về sức mạnh của đồng USD?
Theo Đài Sputnik, đứng trước tình hình giá vàng gia tăng mạnh mẽ, một số nhà kinh tế cho rằng giá của kim loại quý này sẽ duy trì ở mốc trên 2.000 USD đến năm 2024 do những bất ổn chính trị, khả năng cắt giảm lãi suất và cả đồng USD yếu hơn.
Lần tăng giá vàng gần đây nhất có thể được kích hoạt bởi việc giá trị của đồng bạc xanh sụt giảm 3,1% so với rổ sáu loại tiền tệ chính kể từ đầu tháng 11. Sự sụt giảm này xảy ra trong bối cảnh các nhà đầu tư ngày càng nghi ngờ rằng Ngân hàng Dự trữ Liên bang (Fed) của Mỹ có thể cắt giảm lãi suất vào đầu năm tới.
"Trước hết, tôi nghĩ điều đó cho thấy mọi người mất niềm tin vào đồng đô la Mỹ cũng như là các tổ chức của Mỹ", ông Claudio Grass, chuyên gia tại Viện chính sách Mises và là cố vấn về kim loại quý độc lập tại Thụy Sĩ, nói với Đài Sputnik.
Ông Grass lưu ý thế giới đang bị chia cắt một lần nữa. Và trong đó, phương Đông đang chuyển dịch khỏi đồng đô la Mỹ thay vì sử dụng nó làm đồng tiền dự trữ quốc tế. Theo ông, trước xu thế này, Fed sẽ phải giảm lãi suất trong tương lai hoặc đối mặt với sự sụp đổ giảm phát.
"Vào những thời điểm không chắc chắn như hiện nay, vàng có thể hoạt động tốt trong môi trường lạm phát và cả giảm phát", ông nói.
Các nhà quan sát kinh tế, giá vàng bắt đầu tăng từ tháng 11 khi các nhà giao dịch đổ xô đi mua vàng trong những tuần gần đây, bất chấp lãi suất cho vay đang cao, để bảo toàn tài sản. Xu hướng này rõ ràng được thúc đẩy bởi cuộc xung đột ở Ukraine, các lệnh trừng phạt của phương Tây đối với Nga, suy thoái kinh tế và lạm phát đang rình rập ở các nền kinh tế phát triển lớn và mới đây là cuộc chiến ở Gaza. Lần gần nhất kim loại quý này tăng đột biến vào tháng 8/2020 ở mức 2.072,49 USD/ounce.
Ông Claudio Grass nói thêm: "Trước đây, người ta cho rằng đã tìm ra công thức kỳ diệu để tồn tại trước sự biến động của thị trường. Chúng tôi biết những danh mục đầu tư được gọi là 60 - 40 hoặc 60% cổ phiếu và 40% trái phiếu. Chiến lược này không còn hiệu quả nữa. Ví dụ, vàng đã vượt trội hơn trái phiếu Kho bạc Mỹ tới 75% kể từ năm 2018.
Chuyên gia này dự đoán trong tương lai các nhà đầu tư tổ chức cũng sẽ chuyển từ trái phiếu chính phủ sang vàng vật chất, trước cuộc khủng hoảng nợ công nghiêm trọng.
Sức phổ biến ngày càng tăng của vàng thể hiện rõ ràng những điểm yếu của hệ thống quản lý tiền tệ Bretton-Woods tập trung vào đồng USD, cũng như hành động in tiền thiếu trách nhiệm của các nước lớn ở phương Tây. Theo ông Grass, thế giới đang tiến tới sự kết thúc của hệ thống tiền tệ do Mỹ thống trị.
Chuyên gia nghiên cứu thị trường cấp cao Louise Street của Hội đồng Vàng Thế giới (WGC) cho hay: "Nhu cầu vàng đã và đang ổn định trong suốt cả năm qua, với lợi suất tốt trước áp lực từ lãi suất cao và đồng USD mạnh. Trong tương lai, do căng thẳng địa chính trị gia tăng và dự báo về việc các ngân hàng trung ương tiếp tục mua vàng mạnh mẽ, nhu cầu vàng có thể vượt mong đợi".
Các ngân hàng trung ương đã mua vàng nhiều hơn dự kiến trong năm nay, qua đó hỗ trợ đáng kể cho giá vàng, vốn đang phải đối mặt với sức ép từ chính sách thắt chặt tiền tệ trên toàn cầu. Trong một báo cáo công bố ngày 31/10, WGC cho biết các quốc gia đã tăng dự trữ vàng thêm 337 tấn trong quý III/2023. Con số này cao hơn so với mức tăng 175 tấn trong quý II và lớn hơn ước tính 103 tấn của WGC.
Trong 9 tháng kể từ đầu năm nay, các ngân hàng trung ương đã mua tổng cộng 800 tấn vàng, chủ yếu là các nước như Trung Quốc, Ba Lan và Singapore. Con số này đã vượt sức mua trong cùng kỳ năm 2022 do nhu cầu cao kỷ lục. Sức mua lớn của thị trường đã giúp vàng tránh được tác động từ lợi suất trái phiếu chính phủ được điều chỉnh theo lạm phát, vốn thường được coi là yếu tố gây bất lợi cho những tài sản không sinh lời như vàng.
Lý do nợ trong nước của Liên bang Nga tăng mạnh, gần chạm mức trần năm 2023 Chính phủ Nga buộc phải vay thêm vốn trong nước do khả năng vay vốn nước ngoài của Moskva đã giảm trước ảnh hưởng từ các lệnh trừng phạt của phương Tây liên quan đến xung đột Nga - Ukraine. Ảnh minh hoạ: Getty Images Đài RT của Nga ngày 2/10 dẫn lại thông tin đăng tải trên tờ Izvestia cho biết trong...