Những vị vua Việt từng ra nước ngoài
Trừ các vua nhà Nguyễn như Khải Định, Bảo Đại từng sang Pháp, bạn có biết những vị vua, chúa nào từng ra nước ngoài?
Xưa kia, hoàng đế thường chỉ sống ở kinh thành, thỉnh thoảng đi tuần thú các địa phương, chứ ít khi đi sang thăm nước ngoài. Vậy mà vẫn có một số vị vua Việt Nam làm điều này, sự việc đều được ghi lại trong sử sách một cách chính thống.
Vị vua có chuyến thăm “chính thức” nước ngoài của nước Đại Việt là Trần Nhân Tông. Đại Việt sử ký toàn thư, quyển VI chỉ chép ngắn gọn có một dòng: “Tân Sửu năm Hưng Long thứ 9, tức 1301, đời vua Trần Anh Tông, tháng 3, thượng hoàng đi chơi các địa phương, sang Chiêm Thành”.
Đại Việt sử ký toàn thư xác định trong chuyến đi kể trên, thượng hoàng đã hứa gả công chúa cho vua Chiêm Thành, nhưng mãi đến tháng 2/1305, vua Chiêm mới sai sứ mang vàng bạc, hương quý, vật lạ đến kinh thành Thăng Long để dâng làm lễ cầu hôn. Năm sau, vào tháng 6, vua Trần quyết định gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân.
Ngoài Chiêm Thành, Lào (xưa gọi là Ai Lao hoặc Lão Qua) cũng là đất nước có những vị vua Việt Nam từng đặt chân đến.
Vua Khải Định là người đầu tiên có chuyến sang thăm chính thức nước Pháp, từ ngày 15/5/1922 đến 10/9/1922.
Sau đời Lê sơ, khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, con của vua Lê Chiêu Tông là hoàng tử Lê Ninh được vị tướng tâm phúc Lê Quân cõng sang đất Ai Lao nuôi giấu. Đến năm 1532, Lê Ninh được đại thần nhà Lê là Nguyễn Kim tìm đón về, lập lên làm vua, tức vua Lê Trang Tông, khởi đầu triều đại Lê Trung hưng.
Gần tương tự trường hợp Lê Chiêu Tông, trong quá trình bôn tẩu gây dựng lại cơ nghiệp của chúa Nguyễn, trong cuộc chiến với nhà Tây Sơn, vương tử Nguyễn Phúc Ánh từng có thời gian phải lưu vong tại Vương quốc Xiêm (Thái Lan ngày nay).
Thời Tây Sơn, sau khi hoàng đế Quang Trung đánh bại quân Thanh mùa xuân năm 1789 và lập quan hệ ngoại giao với nhà Thanh. Vua Thanh là Càn Long muốn hoàng đế Quang Trung trực tiếp sang Bắc Kinh nhân sự kiện thượng thọ vua Càn Long 80 tuổi.
Sử sách sau này viết rằng Quang Trung – Nguyễn Huệ cho một người cháu là Phạm Công Trị đóng giả mình để dẫn đầu đoàn tùy tùng hùng hậu sang Trung Quốc, với chuyến đi kéo dài gần hết năm 1790.
Video đang HOT
Tuy nhiên, gần đây, nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Chính, sau khi nghiên cứu các văn bản và tài liệu lưu trữ của triều đình nhà Thanh, đã xuất bản cuốn sách, đưa ra nhận định có thể vua Quang Trung đã đi chuyến đó ra nước ngoài. Vấn đề này hiện còn nhiều quan điểm khác nhau.
Sang triều Nguyễn, trừ vua Bảo Đại từng học tập từ bé ở Pháp và các vua yêu nước Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân bị thực dân đày ra nước ngoài, vua Khải Định là người đầu tiên có chuyến sang thăm chính thức nước Pháp, từ ngày 15/5/1922 đến 10/9/1922, nhân sự kiện hội chợ thuộc địa được tổ chức ở thành phố Marseille.
Ngoài ra, một số vua Việt khác phải sống lưu vong bên nước ngoài, như hai vua nhà Hồ là thượng hoàng Hồ Quý Ly và vua Hồ Hán Thương.
Vua Lê Mẫn Đế (Chiêu Thống) cũng phải sống ở nước ngoài cho đến khi chết sau khi quân của vua Quang Trung đại phá quân xâm lược nhà Thanh mà ông ta đưa vào nước ta.
Theo Zing
Hậu duệ vua Lê Đại Hành và cái chết lẫm liệt ở trời Nam
Trần Bình Trọng để lại tấm gương sáng mãi muôn đời với câu nói đi vào sử sách, thi ca: "Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc".
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Trần Bình Trọng (1259-1285) là dòng dõi của vua Lê Đại Hành. Ông sinh ra ở xã Bảo Thái (Thanh Liêm, Hà Nam ngày nay), vợ là Thụy Bảo Công chúa, con vua Trần Thái Tông. Sau này, con gái của ông là Chiêu Từ hoàng thái hậu đã sinh ra vua Trần Minh Tông.
Một số tài liệu cho rằng ông là con trai của Lê Phụ Trần (chồng của Lý Chiêu Hoàng), nhờ có công cứu giá vua Trần Thái Tông nên được vua ban quốc tín, con cháu được mang họ Trần.
Quyết chiến chặn giặc mạnh
Sau khi chiếm Trung Quốc vào năm 1271 để lập ra nhà Nguyên, mục tiêu tiếp theo của Hốt Tất Liệt (hoàng đế nhà Nguyên) là mở rộng lãnh thổ xuống phía Nam. Muốn đạt được mục đích đó, quân Nguyên buộc phải xâm lược bằng được nước ta.
Đó chính là một trong những lý do thôi thúc đội quân xâm lược điên cuồng này chuẩn bị chiến tranh bằng mọi giá, dù dư âm thất bại năm 1258 vẫn còn khiến nhiều bộ tướng của chúng khiếp vía.
Tháng 1/1285, 50 vạn quân Nguyên do Trấn Nam Vương Thoát Hoan (con trai Hốt Tất Liệt), cầm đầu chia quân làm hai cánh thủy bộ tiến vào xâm lược nước ta.
Khi bị giặc bắt, Trần Bình Trọng đã thể hiện tinh thần yêu nước, không chịu khuất phục kẻ thù bằng câu nói đi vào lịch sử dân tộc.
Là đạo quân rất thiện chiến, nhiều kinh nghiệm qua các cuộc chiến tranh xâm lược, giai đoạn đầu, quân Nguyên nhanh chóng chiếm ưu thế trên chiến trường.
Sau khi gặp một số tổn thất trong vài trận đánh mở màn, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn quyết định lui quân về giữ Vạn Kiếp (nay thuộc vùng Chí Linh, Hải Dương).
Sau đó, quân ta lui về Thăng Long, nhưng cũng không cản được sức tấn công ồ ạt của giặc Nguyên. Hưng Đạo Vương lại quyết định rút khỏi Thăng Long, lui về Thiên Trường (Nam Định).
Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Trần Bình Trọng được giao nhiệm vụ rất nặng nề: Phải giữ vùng Đà Mạc - Thiên Mạc, ngăn chặn và cầm chân quân Nguyên, đảm bảo cho bộ chỉ huy rút lui an toàn và bí mật, không để lại dấu vết.
Bên kia chiến tuyến, Thoát Hoan đặc biệt ưu tiên cho cánh quân truy đuổi này với hai đạo cả thủy lẫn bộ đều do những tướng giỏi như Lý Hoằng, Ô Mã Nhi, nhằm truy bắt hai vua Trần (Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông).
Để ngăn chặn đà truy kích của quân Nguyên, bảo vệ hai vua, Trần Bình Trọng đã tổ chức chặn đánh giặc ngay tại bãi Thiên Mạc.
Do có sự chênh lệch quá lớn về lực lượng, Trần Bình Trọng đã sử dụng lối đánh cảm tử, cầm chân địch, giúp vua Trần và bộ chỉ huy rút lui an toàn. Đây cũng là trận đánh có ý nghĩa rất quan trọng về mặt chiến lược. Kể từ đó, quân Nguyên hoàn toàn mất dấu vết bộ chỉ huy kháng chiến của quân ta.
Câu nói nổi tiếng trong lịch sử
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, sau khi bắt được Trần Bình Trọng, giặc tìm mọi cách, vừa dọa nạt, vừa dụ dỗ ông. Tuy nhiên, ông kiên quyết không khuất phục.
Khi được hỏi có muốn làm vương đất Bắc không, Trần Bình Trọng khẳng khái trả lời: "Ta thà làm quỷ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc".
Đó là một trong những câu nói nổi tiếng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm, trở thành biểu tượng của tinh thần yêu nước, không khuất phục trước kẻ thù.
Không thu phục được Trần Bình Trọng, giặc Nguyên giết ông vào tháng hai Âm lịch năm 1285. Lúc đó, ông mới tròn 26 tuổi.
Nghe hung tin ông tuẫn nghĩa, triều đình vô cùng thương tiếc một dũng tướng hết lòng vì dân vì nước. Sách Cương mục chép rằng vua Trần Nhân Tông "được tin này, vật vã thương khóc".
Sự hy sinh và đặc biệt là câu nói ngập tràn khí phách của Trần Bình Trọng đã cho thấy hoài bão lớn nhất của ông là giết giặc báo quốc. Đồng thời, nó cũng chính là khí phách của dân tộc ta với hào khí Đông A lúc bấy giờ.
Sách Đại Nam quốc sử diễn ca viết rằng: Trần Bình Trọng là tôi trung / Thà làm Nam quỷ, chẳng lòng Bắc vương.
Học giả Phan Kế Bính từng có có bài thơ khen ngợi cái chết lẫm liệt của Trần Bình Trọng: Giỏi thay Trần Bình Trọng / Dòng dõi Lê Đại Hành / Đánh giặc dư tài mạnh / Thờ vua một tiết trung / Bắc vương sống mà nhục / Nam quỷ thác cũng vinh / Cứng cỏi lòng trung nghĩa / Ngàn thu tỏ đại danh.
Trần Bình Trọng được các sử gia đời sau đánh giá rất cao vì lòng trung thành với đất nước và nhà Trần, trở thành một ví dụ điển hình cho lòng anh dũng khẳng khái. Ông được truy phong làm Bảo Nghĩa vương.
Tưởng nhớ đến người anh hùng lẫm liệt, nhân dân lập đền Trần Bình Trọng tại làng Mạn Trù, xã Tứ Dân, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Nhiều địa phương ở đất nước ta cũng có những con đường và nhiều danh lam thắng cảnh mang tên ông.
Theo Zing
Thầy giáo có nhiều học trò đỗ trạng nguyên, bảng nhãn nhất lịch sử Thầy Trần Ích Phát có 3 học trò đỗ trạng nguyên, 4 bảng nhãn, 10 thám hoa và nhiều người khác đỗ tiến sĩ. Ông được cho là thầy giáo có nhiều học trò đỗ đại khoa nhất trong lịch sử. Theo sách Đại Nam nhất thống chí, thầy Trần Ích Phát (chưa rõ năm sinh, mất) quê ở làng Triều Dương, huyện...