Những sai sót ‘trầm kha’ trong sách Tiếng Việt lớp 1
Khi bộ sách Tiếng Việt lớp 1 được phát hành cách đây 10 năm, sau một loạt ý kiến của công luận, chủ biên Đặng Thị Lanh đã phát biểu ghi nhận chính thức trên VTV, đồng thời đại diện của Bộ GD-ĐT cũng hứa hẹn sẽ xem xét hiệu đính ngay trong lần tái bản thứ nhất.
Thế rồi, thời gian cứ trôi qua, hằng năm sách vẫn được tái bản, các sai sót vẫn không được chỉnh sửa chút nào.
Sau khi bộ sách được tái bản mười lần, chúng tôi lại cố gắng đọc kỹ từng trang để cuối cùng thở dài ngán ngẩm, bởi những sai sót từ những ngày đầu xuất bản vẫn được giữ nguyên.
1. Về việc viết hoa, tôi cho rằng không nên đợi đến bài 28 mới dạy cho các cháu học chữ viết hoa, mà hãy đưa ngay bảng chữ cái ở đầu sách, sau đó vào từng bài kết cấu chữ viết hoa song song với chữ viết thường, như thế sẽ không bị khiên cưỡng khi phải viết tên riêng.
Trong tập một, suốt 27 bài học vỡ lòng, tên người đều viết thường (dì na, bé hà, chị kha, bé nga…), mãi đến bài 28 trở đi mới viết hoa tên người, liệu các cháu có đủ nhận thức để sửa đổi hay lại theo quán tính để sau này sinh ra tính tùy tiện?
Từ bài 28 trở đi, tên các con vật bắt đầu được viết hoa, nhưng không nhất quán, có chỗ viết hoa, chỗ viết thường, thậm chí cùng một loài vật trong cùng một trang cũng bất nhất (ví dụ: ở trang 67, hình 1: “Bói Cá”, hình 2: “bói cá”) và tương tự ở các trang 81, 87, 89, 97, 99… Tên cảnh vật cũng thế (ví dụ: trang 70: đồi núi; trang 71: Đồi núi; trang 114: con đường; trang 115: Đồng ruộng; trang 126: đống rơm; trang 127: Bữa cơm…).
Ở tập hai, chữ viết thường, viết hoa cũng tùy tiện, chẳng có sự nhất quán, không riêng gì từ bài 1đến bài 27. Trong suốt tập hai này, tên các con vật khi thì viết thường (tép, cua, hoẵng, nai, gà mái, chim chào mào, cò…), khi thì viết hoa (Tép, Sóc Bông, Gà Trống, Rùa, Thỏ, Sư Tử…), thậm chí trong cùng một trang nhưng viết 2 cách (trang 17, H1: tép, cua, H2: Tép), đôi khi còn dùng dấu gạch nối tùy tiện (trang 81: Chuột-Nhắt) và cũng không theo quy tắc số ít số nhiều.
Ban biên tập sách cho rằng trong câu “Buổi trưa, Cừu chạy theo mẹ… Nó thấy bầy hươu nai…” Cừu là số ít nên viết hoa. Đây là cách nghĩ không theo chuẩn chính tả và cũng không biết căn cứ vào quy định nào, trong khi quyết định 07/2003/QĐ-BGD&ĐT của Bộ Giáo dục và đào tạo về cách viết hoa tên riêng trong sách giáo khoa cũng chỉ quy định viết hoa tên con vật, sự vật khi nó được nhân cách hóa (ví dụ: chú Gấu, cô Thỏ, bác Nồi Đồng…).
Theo tôi, những sai sót này góp phần gây nên tính tùy tiện cho các cháu. Và như thế, chúng ta đã bỏ qua phương châm “dạy người” trong sách giáo khoa.
2. Về việc chú thích hình ảnh, ngoài thứ tự tùy tiện như đã nêu, nhiều hình được chú thích không logic, mơ hồ, dễ gây nhầm tưởng cho các cháu.
Video đang HOT
Chẳng hạn như ở tập một trang 23: hình ảnh được chú thích bờ hồ thì các cháu ở TP Hà Nội có thể chẳng suy tư gì, nhưng các cháu ở nhiều tỉnh thành khác sẽ băn khoăn khi học hình ảnh này vì nó có khác gì bờ sông đâu?
Bờ hồ chẳng khác bờ sông.
Trang 33, hình 1 được chú thích “bố thả cá mè, bé thả cá cờ” thì làm sao để nhận dạng và phân biệt được 2 loại cá đó trong hình.
Trang 37: hình ảnh chùa Một Cột được chú thích “thủ đô”, các cháu sẽ nghĩ gì về hình tượng một thủ đô của đất nước ta?
Đây là chùa Một Cột.
Trang 113: hình 2 chú thích “Ao, hồ, giếng” nhưng trong hình chỉ có 2 loại vật thể. Như vậy, tác giả muốn các cháu hiểu ao đồng nghĩa với hồ hay sao? Mà nếu thế thì không thể dùng dấu phẩy đồng đẳng như trong trang hiện hành.
3. Về việc dùng từ, có nhiều trường hợp thiếu chuẩn xác:
Trang 75, tập một, hình 2 được chú thích “Chạy, bay, đi bộ, đi xe đạp”. Theo tôi, trong cùng một hình, những động từ chỉ hành động cũng phải đồng nhất về đối tượng, nếu phải hơi khiên cưỡng thì ứng với hành động “bay” là con chim còn chấp nhận được sao lại dùng hình chiếc máy bay? Nếu vẫn dùng hình chiếc máy bay thì phải ghi chú là “đi máy bay” mới logic.
Chú thích không logic.
Trang 41, tập hai, hình 2 được chú thích “Đèn dầu, đèn điện, đèn huỳnh quang”. Dùng từ “đèn điện” để phân biệt với từ “đèn huỳnh quang” là không chuẩn xác vì đèn huỳnh quang cũng là đèn điện mà. Hơn thế nữa trong bài tập điền vần ở trang 93/tập hai thì hình ảnh cây “đèn điện” này lại được ghi là “đ… bàn”? Rõ ràng sách đã làm rối khái niệm của từ ngữ.
4. Tùy tiện gọi tên động vật: Trang 89/tập hai: hình 2 được chú thích “Cá mực nướng rất thơm”. Các cháu học cá mực ở lớp 1, nhưng lên các lớp trên chẳng bao giờ có “cá mực” vì đây không phải là một loài cá, các tài liệu động vật học trong cả nước đều gọi tên là “mực”? Không hiểu ban biên tập sử dụng Từ điển tiếng Việt nào?
Nếu cho rằng do các cháu chưa học vần “ốc” nên chú thích hình ở trang 97 tập một là “Sên”, tôi cho rằng cách trả lời này không thuyết phục, vì sên và ốc sên là hai loài khác nhau. Tôi nghĩ là nên ghi nhận ý kiến này và trong lần tái bản tới đây có thể thay con ốc sên trong hình vẽ bằng con nhện chẳng hạn.
5. Lỗi chính tả do ngọng âm: Trang 95/tập 2: sách ghi “xoong canh”, trong khi từ chuẩn cả nước dùng là “soong”?
6. Dùng câu thiếu bổ ngữ, sai động từ: Câu “bé bị ho, mẹ cho bé ra y tế xã” ở trang 55/tập một nên sửa lại “bé bị ho, mẹ bế bé ra trạm y tế xã”. Cách trả lời của nhà xuất bản không thuyết phục, vì ngay trên hình vẽ đã có chữ TRẠM Y TẾ rồi. Về vấn đề này chúng ta cũng phải có chính kiến sư phạm, không thể vì đối phó tình huống mà vấy vào bộ não trong trắng các cháu một mẫu câu sai. Nếu ban biên tập vẫn bảo lưu ý kiến thì theo tôi nên thay hình vẽ để có câu chú thích khác không bị gò bó bởi âm chưa học.
Đầu óc các cháu lớp 1 như trang giấy trắng, những gì được ấn vào rồi sau này khó gột tẩy, sửa đổi.
Thiết nghĩ Bộ Giáo dục và đào tạo nên sớm xem xét nghiêm túc để có hướng chỉnh sửa, đừng để những sai sót đó trở thành bệnh trầm kha trong bộ sách đầu lòng của các cháu như thời gian vừa qua.
Theo Tuoitre
Thổi xôi là gì?
Tôi xin nêu ra một ví dụ: "Bà nội thổi xôi". Ngày xưa, thời bao cấp không có gas và bếp điện nên mọi người nấu cơm canh... bằng cách nhóm lửa rồi thổi cho lửa bùng vào than hay củi nên nấu gì cũng hay gọi là "thổi" (thổi cơm, thổi canh, thổi xôi).
Đúng thứ tự
Ngày nay đa số dùng gas, kể cả các vùng nông thôn giờ cũng dùng gas/điện khá nhiều... nên động từ "thổi" rất xa lạ kể cả với thế hệ phụ huynh sinh năm 1980.
Chính các phụ huynh trẻ ở Sài Gòn cũng không hiểu "thổi xôi" là cái gì. Cứ hỏi mình. Tại sao không dùng động từ đơn giản như "nấu cơm", "nấu xôi"... mang tính phổ quát hơn cho toàn đất nước mà cứ sính các đặc ngữ miền Bắc vào. Hôm họp phụ huynh, lớp bị chia làm ba phe cãi nhau vui phết: Phe đầu tiên thì nghĩ như mình Bà nội thổi xôi = Bà nội nấu xôi. Phe thứ hai thì cho rằng Bà nội thổi xôi = Bà nội thổi xôi... cho nguội! (suy diễn chắc xôi mới nấu còn nóng). Phe thứ ba thì im lặng không quyết định được do sách không có hình minh họa.
Cuối cùng đợi cô giáo vào lớp hỏi... thì thật bất ngờ cô giáo nói trước đây cô cũng không hiểu nghĩa câu này, sau trường phải điện lên phòng giáo dục, phòng giáo dục quận bảo chờ hai tuần để có trả lời từ sở, tiếp tục chờ thêm một tuần nữa. Cuối cùng có công văn trả lời xuống rằng Bà nội thổi xôi = Bà nội nấu xôi.
Sách giáo khoa viết mà đến giáo viên và phụ huynh còn bí thì hỏi đem dạy con trẻ thế nào đây? Ngoài ra sách lớp 1 không nên dùng các từ quá chuyên sâu "chẻ lạt", "nghề giã giò", "gà gô", "gà ri"... cho học sinh lớp 1. Một trong những chữ quá chuyên sâu là "tre ngà", sách lớp 1 vẽ hình qua loa nên không biết tre ngà thật sự ngoài đời ra sao, có giáo viên đành cho học sinh viết "tre già" (đề cương ôn tập). Khi mình phát hiện điều này nói với cô giáo thì cô thừa nhận: vì "tre ngà" khó hiểu và khó giải thích cho bé lớp 1 quá nên em cho các bé viết thành... "tre già"!
---------------
Sai thứ tự
Trong sách Tiếng Việt lớp 1 (NXB Giáo Dục, tái bản lần thứ 11, số 02/13. In xong và nộp lưu chiểu tháng 1-2013) ở tập 2, một số hình ảnh và chú thích không theo thứ tự. Nếu như đây là bài tập để học sinh chỉ ra các đồ vật thì nên đưa như thế; đằng này có những hình ảnh chú thích đúng thứ tự, có những hình ảnh thì sai, như vậy sẽ khiến học sinh nhầm lẫn hình ảnh đồ vật. Tôi mong rằng những sai sót như thế này cần sớm được chỉnh sửa.
Theo Tuoitre
Lỗi chính tả trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 Câu thơ nguyên văn trong bai Quê hương cua nha thơ ô Trung Quân la Tuôi thơ con tha trên đông, sach giao khoa Tiêng Viêt lơp 1, tâp 1, in "Chiêu chiêu con tha trên đông" (bai 80, trang 163). oc toan bô sach giao khoa Tiêng Viêt lơp 1, tâp 1, do Nxb Giao Duc (Bô Giao duc - đao tao)...