Những phong tục cưới hỏi kỳ lạ ở Việt Nam
Trai gái Mông ở Mèo Vạc (Hà Giang) khi thích nhau sẽ vỗ vào mông người kia đủ 9 lần để tỏ tình và nên duyên vợ chồng; còn ở thị trấn Yên Lạc (Vĩnh Phúc) mỗi tháng chỉ có 2 ngày được phép tổ chức cưới.
Vỗ mông chọn vợ ở Hà Giang
Người Mông ở Mèo Vạc (Hà Giang) ngoài tục chặn đường cướp dâu còn có tục vỗ mông để chọn bạn đời. Đầu năm, trai gái Mông háo hức sắm sửa quần áo đẹp đi chơi xuân. Trên các bãi đất trống, trai gái thi nhau thổi khèn, ném còn giao duyên.
Hai bên phải vỗ vào mông đối phương đủ 9 lần thì lời tỏ tình mới được chấp nhận
Thích cô gái nào đó, chàng trai vỗ vào mông thiếu nữ coi như tỏ tình. Nếu ưng cái bụng thì cô gái vỗ đáp lại. Hai người vừa đi vừa vỗ đến khi đủ 9 cặp thì thôi, sau đó họ tìm chỗ ngồi tâm sự riêng. Người Mông quan niệm mỗi bên phải vỗ mông đủ 9 lần thì lời tỏ tình mới được công nhận. Sau đó, chàng trai tìm người mai mối và họ chính thức nên duyên vợ chồng.
Thực ra, không phải vô tình mà trai gái Mông tìm được nhau và thực hiện tục lệ trên. Những người tham gia tục lệ này thường có sự tìm hiểu từ trước và ưng thuận nhau. Vỗ mông chỉ là cái cớ để hai người gặp lại, chàng trai có dịp thể hiện tình cảm lẫn bản lĩnh của mình trước mặt cô gái và những người xung quanh.
Đàn ông Mông thường chọn người vợ biết thêu thùa, khâu vá. Ngoài ra, cô gái phải có dáng to khỏe, bắp chân săn vồng, mông to nhún nhảy trong làn váy theo mỗi bước đi vì những người đó khéo làm lụng và chăm con.
Nơi một tháng chỉ được cưới hai ngày
Thị trấn Yên Lạc (Vĩnh Phúc) là địa phương duy nhất của cả nước có quy ước cưới xin. Ngày dạm ngõ, ngày cưới được quy định rõ ràng. Đám cưới ở đây chỉ được tổ chức vào hai ngày trong tháng là mùng 2 và ngày 16 âm lịch. Quy ước còn quy định cụ thể cách tổ chức cưới “Không làm sân khấu, không dùng loa nén, không cổng chào, dùng các loại bóng điện thường thắp sáng, tiết kiệm chi tiêu, không tổ chức ăn lại mặt sau cưới…”.
Với 80% dân số làm nghề mộc, mức sống của người dân thị trấn khá cao. Vào ngày được cưới, cả thị trấn đóng cửa xưởng, người dân gác việc nhà đổ xô đi ăn cỗ. Cả chục đôi uyên ương cưới cùng một ngày khiến cho việc đi ăn cưới ở đây giống một ngày hội.
Dù quy ước còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng đã thành lệ, thành thói quen nên người dân nghiêm túc thực hiện, không có đám nào phá lệ. Chỉ có đám thanh niên là không đồng thuận, vì cho rằng cưới không hát hò, loa đài thì buồn và bị trai làng khác chọc khoáy là kém chịu chơi. Nhưng lệ ông cha đặt ra nên họ đành phải chấp nhận.
Tục rước dâu ban đêm của người Thái ở Nghệ An
Video đang HOT
Trước khi bước vào cửa nhà chồng, cô dâu sẽ được làm lễ rửa chân kỹ càng.
Người Thái ở bản Cò Phạt, xã Môn Sơn (Con Cuông, Nghệ An) thường rước dâu vào lúc 0h. Họ cho rằng ban ngày có nhiều linh hồn, quỷ dữ lang thang, nếu đám rước tiến hành ban ngày thì những linh hồn sẽ theo về phá hạnh phúc của đôi trẻ. Thời khắc chuyển giao giữa ngày cũ và mới chính là lúc trong lành, có nhiều lộc trời nhất, là lúc thích hợp để đón cô dâu về nhà.
Đúng 22h đêm, đoàn rước nhà chú rể bắt đầu lên đường. Ngoài lễ vật thì nhà trai phải chuẩn bị một cái chiêng để vừa đi vừa gõ, xua đuổi tà ma và thông báo cho cả làng biết người con gái trở thành con nhà mình.
Khi đến nơi, cổng nhà gái đóng kín. Cô dâu đứng trong hát “Cổng nhà tôi then nào cũng dài/ Đố anh biết cái này gỗ chắc?”. Chú rể buộc phải vượt qua thử thách màn hát đối đáp giao duyên thì mới được mở cổng cho vào.
Bước vào sân, chú rể bị người nhà cô dâu té cả xô nước vào người. Đây là tục lệ “rửa tội” và cũng để thử thách lòng kiên nhẫn của chàng trai. Qua được màn này, chú rể bước lên nhà và tiếp tục vượt qua các vòng hát đối đáp khi người nhà cô dâu mời ngồi, mời trầu. Nội dung màn hát kể những gian lao, vất vả của hai họ khi nuôi nấng cô dâu, chú rể trưởng thành khiến cuộc rước dâu thêm tưng bừng. Người Thái hay hát đối đáp nhằm kéo dài thời gian, chờ thời khắc để rước dâu và cũng là giữ gìn phong tục của người xưa.
Thời khắc rước dâu đã điểm, cô dâu bước ra khỏi nhà. Về đến nhà chú rể, cô sẽ được mẹ chồng chờ sẵn với chậu đồng đựng nước suối trong, có ngâm đồng xu bạc. Bà sẽ rửa chân cho con dâu vào nhà và trao vòng bạc may mắn. Sau đó, đôi trẻ trao vòng cưới và thề hẹn thủy chung suốt đời.
Điều đặc biệt trong đám cưới nơi đây, dù lấy chồng gần hay xa thì cô dâu cũng phải đi bộ. Đôi trẻ dẫn đầu, đoàn người cứ thế đi trong sương lạnh nhưng ấm tình người.
Mùa bắt chồng của thiếu nữ Chu Ru ở Lâm Đồng
Tháng ba Tây Nguyên, mùa con ong đi lấy mật cũng là lúc thiếu nữ Chu Ru rộn ràng vào mùa bắt chồng. Người Chu Ru sống theo chế độ mẫu hệ, muốn có chồng thì cô gái phải đi bắt vào ban đêm.
Theo tục lệ của người Chu Ru, sau khi chàng trai đồng ý đeo nhẫn, cô gái dâng chiếc khăn tự tay dệt. Họ choàng chung và chính thức trở thành vợ chồng.
Khi thích chàng trai nào đó, thiếu nữ thông báo cho cả gia đình và dòng họ biết. Gia đình cô gái đến nhà chàng trai hỏi dạm và bà mối đeo chuỗi cườm, nhẫn đính hôn vào tay chàng trai. Người con trai nhận đeo nhẫn nghĩa là chấp thuận làm chồng cô gái. Trường hợp không thích, chàng trai có thể tháo trả nhẫn nhưng 7 ngày sau cô gái lại chọn đêm đẹp trời để tới, cho đến khi chàng trai đồng ý và đám cưới được tiến hành.
Trước ngày cưới của đôi trẻ, buôn làng tổ chức đêm hội bắt chồng rất tưng bừng. Trong đêm hội, trai gái phải đọc những luật tục riêng, như “Tìm vợ, tìm chồng phải hỏi mẹ cha, ăn ruộng ăn rẫy phải hỏi tai con trâu con bò, làm rẫy phải hỏi thần núi, về với vợ như về với nước…”.
Với người Chu Ru, đôi nhẫn cưới mang một sức mạnh huyền bí, được gọi là Srí. Nó làm nhiệm vụ kết nối và trở thành lời thề hạnh phúc gia đình khi người con gái hoàn thành thủ tục bắt chồng.
Để đúc nhẫn, người nghệ nhân nấu chảy sáp ong, trộn phân trâu rồi dùng que gỗ tròn bằng ngón tay nhúng vào, chờ sáp khô là rút que gỗ ra. Sáp và phân quánh thành ống tròn, được cắt làm khuôn đúc nhẫn. Sau đó, họ đổ bạc đun nóng vào khuôn, đúc thành đôi nhẫn trống mái. Nhờ sức nóng của bạc, sáp và phân bết chặt tạp thành lớp men ngoài nhẫn, tượng trưng cho vợ chồng gắn kết thủy chung.
Lấy nhau về, vợ hoặc chồng ngoại tình sẽ phải đền ba con trâu đực cho người kia và số trâu tăng theo số lần ngoại tình. Con trâu là tài sản lớn trong nhà nên đây được coi là tập tục gắn kết tình chung thủy trong đời sống vợ chồng. Đôi nhẫn sau này trở thành tín vật giữa hai nhà.
Theo CL/VnE
Kỳ lạ tục trai gái ngủ chung thoải mái trước hôn nhân của người Mạ
Trong phong tục của người Mạ, các cặp đôi khi tìm hiểu nhau nếu "ưng cái bụng" họ sẽ được ngủ chung thoải mái.
Tục yêu đương của người Mạ vốn rất mới mẻ. Trong chuyện yêu đương hay tự tìm bạn đời, cha mẹ không hề ngăn cấm hay ràng buộc. Nếu cảm thấy "ưng cái bụng", đôi trai gái có thể dắt nhau vào rừng hay những nơi vắng vẻ để tìm hiểu.
Người Mạ (ảnh tư liệu).
Ngủ chung thoải mái trước khi cưới
Vượt hơn 180 km, dọc theo Quốc lộ 20 và băng qua chiếc cầu treo Tà Lài (dài 164m, rộng 4m) vắt ngang sông Đồng Nai, chúng tôi đã có mặt tại ấp 4, xã Tà Lài, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Nơi đây là địa bàn sinh sống từ lâu đời của cộng đồng người Mạ. Trong chiều chạng vạng nơi góc rừng Cát Tiên, cuộc sống của người dân tộc thiểu số nơi đây vẫn quen thuộc với tiếng kẽo cà kẽo cọt của khung cửi. Bên ché rượu cần của già làng K'Gõ, 84 tuổi, vốn được mệnh danh là "kho tàng văn hóa sống" của người Mạ ở Tà Lài, chúng tôi được nghe kể nhiều câu chuyện độc đáo về phong tục, tập quán từ xa xưa. Trong đó, thú vị nhất chính là quan niệm khá mới mẻ của họ về hôn nhân.
Hôn nhân của người Mạ ở Đồng Nai theo chế độ phụ hệ, một vợ một chồng và tuyệt nhiên không có quan niệm trọng nam khinh nữ. Đặc biệt, khi con cái trong nhà đến tuổi trưởng thành, khoảng 15-17 tuổi, thì được thoải mái tự do tìm hiểu. Ngoại trừ những trường hợp bố mẹ có hôn ước cho con từ thuở nhỏ, đứa trẻ lớn lên sẽ phải tuân theo và không được tự do lựa chọn bạn đời. Tập tục cũng quy định, nếu bên nào bội ước thì phải tiến hành "trả lễ" cho bên kia. Chẳng hạn, đằng trai lấy vợ trước, bên gái sẽ có quyền yêu cầu nhà trai "trả lễ". Đây chính là một hình thức "phạt vạ" đã tồn tại từ lâu trong cộng đồng người Mạ. "Nếu bên nào đi lấy người khác trước thì bị phạt của cải rất nhiều, bằng số tiền cưới luôn. Lễ vật gồm hai con trâu, bốn con heo, nhiều rượu cần, chóe, gạo, thóc, gà vịt...", già làng K'Gõ cho biết.
Già làng K'Gõ. Ảnh T.G
Tục yêu đương của người Mạ vốn rất mới mẻ. Trong chuyện yêu đương hay tự tìm bạn đời, cha mẹ không hề ngăn cấm hay ràng buộc. Nếu cảm thấy "ưng cái bụng", đôi trai gái có thể dắt nhau vào rừng hay những nơi vắng vẻ để tìm hiểu. Thậm chí, sau khi G'bổ (thương nhau), họ có thể tầm-pài (ngủ với nhau) miễn là không cùng huyết thống và không được để có bầu trước hôn nhân. Đáng nói là, việc này không hề ảnh hưởng đến chuyện trăm năm của cô gái sau này.
Ngày xưa, người con gái mang bầu trước khi kết hôn thì sẽ bị bon (làng) phạt rất nặng như đuổi ra khỏi nơi cư trú, trừ phi có người nhận làm cha đứa bé trong bụng. Ngày nay, tục lệ này đã không còn. Nếu cái thai của con gái "vô chủ", cha mẹ phải soạn lễ vật cúng trong nhà như heo, vịt, gà... để tránh xui xẻo. Theo anh K'Lâm (cán bộ văn hóa xã Tà Lài), dù phong tục của người Mạ rất "thoáng" trong chuyện trinh tiết nhưng một cô gái không ăn ngủ cùng lúc với nhiều chàng trai sẽ được mọi người đánh giá có đạo đức hơn một cô gái có lối sống buông thả. Trường hợp một cô gái được hai chàng trai để ý, giữa họ phải có một cuộc thách đấu bằng xà gạc (dụng cụ đi rẫy và là vũ khí đi rừng của người dân tộc -PV). Ai đủ bản lĩnh giành chiến thắng sẽ được yêu cô gái.
Kỳ lạ không được tiếp tục ngủ chung sau đám nói
Khi hai người đồng ý sống cùng nhau, chàng trai sẽ về thông báo với gia đình để chuẩn bị sính lễ đến nhà cô gái làm đám nói. Cùng với những lễ vật đã được sắm rất chu đáo, bên nhà trai sẽ nhờ một người có uy tín trong họ hàng để làm ông mai dẫn đến nhà gái. Khi đi hỏi vợ, chàng trai người Mạ đã trở thành một người đàn ông thực thụ với ngọn lao cầm trên tay, chiếc dao dắt ngang lưng và trên vai là cây xà gạc. Đồng thời, anh ta sẽ được mặc trang phục truyền thống của người Mạ, đó là đóng khố với nhiều sợi dây màu đỏ nổi bật, tay đeo trang sức đồng, búi tóc lên cao và cài một chiếc lược sừng sâu. Cô gái sẽ phục sức lên người một bộ váy với nhiều hoa văn đặc trưng rất đẹp mắt của người Mạ, kèm theo những phụ kiện như chiếc đai lưng màu sặc sỡ, đeo nhiều chuỗi vòng có đính hạt cườm. Cô gái cũng giống như chàng trai, búi tóc và cài lược sừng trâu nhưng được cắm thêm con dao nhỏ.
Khi vừa tới nhà gái, tự tay chàng trai sẽ cắm ngọn lao xuống đất, ngay trước cửa nhà gái và... đứng đợi. Một lát sau, người đại diện cho đàng gái có thể là cha hoặc cậu ruột sẽ trực tiếp ra đón nhà trai. Sau khi nghe lời trình bày lý do tại sao đến đây của chàng trai, nhà gái gật đầu đồng ý. Ngay lúc đó, chàng trai sẽ rút ngọn giáo và cùng mọi người vào nhà. Cũng giống như nhiều dân tộc thiểu số khác, việc đầu tiên mà chàng trai người Mạ phải làm khi bước chân vào nhà gái là đứng trước bàn thờ tổ tiên khấn vái rồi đem ngọn giáo gác lên xà nhà. Ngọn giáo sẽ được để nguyên tại nhà gái bảy ngày bảy đêm.
Sau những nghi lễ được hai họ cử hành, mọi người mới cùng nhau ngồi lại bên những ché rượu cần. Lúc tiệc rượu tàn, nhà trai ra về, riêng chàng trai sẽ ở lại nhà vợ chưa cưới để làm việc. Đặc biệt, một tập tục kì lạ chỉ có ở người Mạ là sau đám nói việc quan hệ nam nữ sẽ tuyệt nhiên bị cấm, dù trước đó hoàn toàn thoải mái. Trường hợp đôi trai gái muốn ngủ chung thì phải vào rừng và tự dựng túp lều để cùng nhau sống ở đó. Đến khi kết hôn các cặp đôi sẽ được ngủ chung.
Già làng G'Bổ bảo, trong quá trình sống chung, nếu đôi vợ chồng trẻ không hợp nhau hay cô gái không thể sinh con cho nhà chồng thì đằng trai có thể trả cô gái về nhà mẹ đẻ. Dù cô dâu có lỗi cũng không được đánh đập, đặc biệt trước mặt bố mẹ vợ và con cái, vì như thế chẳng khác nào đánh vào cha mẹ cô gái. Theo quan niệm của người Mạ, nếu cô dâu được trả về nhà mẹ đẻ trong tình trạng bầm dập, thì cô đã là một người chết, nhà gái sẽ không nhận. Đồng thời, nhà gái sẽ phạt vạ nhà trai rất nặng. Chính vì vậy, để cha mẹ nhận lại con cái của họ thì cô gái phải được trả về "nguyên vẹn".
Lễ vật thách cưới cả trăm triệu đồng
Khi màn đêm dần buông xuống, không khí yên ắng và không gian âm u, tịnh mịch thâm sâu của khu rừng Cát Tiên như được xua tan bớt bởi ánh lửa bập bùng trong những ngôi nhà sàn. Thi thoảng, tiếng cười giòn tan của trẻ thơ hay tiếng cười sảng khoái sau những câu bông đùa của người lớn lại vang lên, báo hiệu kết thúc chuỗi ngày làm mùa mệt nhoài trên nương rẫy.
Chị Ká Rển, nghệ nhân dân gian. Ảnh T.G
Cùng ngồi chuyện trò với chúng tôi, chị Ká Rển - nghệ nhân dân gian của người Mạ tâm sự: "Làng Tà Lài của người Mạ giờ đã có nhiều nhà gạch, nhưng người dân nơi đây vẫn thích được sống trong những nếp nhà sàn. Nhất là cùng ngồi bên nhau chuyện trò về những người đi trước bên bếp lửa và ché rượu cần". Chúng tôi được nghe chị kể câu chuyện ở rể của chàng trai Tà Lài khi không đủ tiền trả sính lễ cho nhà gái. Theo chị, trong quan niệm của người Mạ, người con gái khi đi lấy chồng chẳng khác nào... mất luôn. Vậy nên, nhà gái sẽ đòi hỏi sính lễ rất cao đối với nhà trai. Để được đính hôn với cô gái, chàng trai phải "cống nạp" lễ vật cho bố mẹ vợ tương lai là một ché rượu cần, một con gà, nhiều chuỗi hạt đeo cổ, lục lạc, lược sừng và nhiều món quà quý khác theo yêu cầu của nhà gái.
Trước khi tiến hành hôn lễ, nhà trai phải nạp nhiều lễ vật có giá trị khác như: hai con trâu, sáu con lợn, một cặp chiêng, ba mươi cái ché. Ngoài ra, họ phải đãi tiệc dân làng nhiều ngày liền. Chàng trai cũng có thể "khất" nhà gái phần sính lễ nếu chưa thể trả hết, với điều kiện phải đi ở rể. Chỉ khi nào sính lễ cho nhà gái được hoàn tất thì chàng trai mới được đưa cô gái về nhà mình làm dâu và những đứa con sinh ra mới được mang họ cha. Chị Ká Rển chia sẻ: "Nếu tính theo thời giá hiện nay, tổng số lễ vật mà nhà trai mang đến nhà gái có thể lên tới hàng trăm triệu đồng. Vì số tiền quá lớn, nhiều chàng trai có hoàn cảnh nghèo khó đành ở rể suốt đời. Như tôi đây, đến bây giờ vẫn mang họ của mẹ vì cha quá nghèo, đến lúc chết vẫn chưa trả hết lễ vật. Cha mẹ tôi sống cùng nhau bao năm, sinh đến 10 mặt con mà theo tục lệ người Mạ cha tôi vẫn chưa thể có... vợ".
Đến bây giờ, việc lấy chồng của chị cũng theo quan niệm của người Mạ, nên hiện chồng Ká Rển vẫn phải ở rể vì gia đình anh quá nghèo. Tất nhiên, bốn đứa con của anh chị đều mang họ mẹ. Chỉ khi nào anh hoàn tất được sính lễ cho nhà gái thì con cái mới được "chính danh" mang họ cha.
Nguyên nhân nạn tảo hôn ở người Mạ Trao đổi với chúng tôi, bà Nguyễn Thị Ánh Tuyết - Trưởng ban Quản lý nhà văn hóa xã Tà Lài - cho biết: "Người Mạ có phong tục trai gái đến tuổi dậy thì có quyền được tầm - pài (ngủ chung với nhau) nếu ưng bụng. Chính vì vậy, nhiều em đã lỡ mang bầu nên phải kết hôn khi đang là học sinh ở độ tuổi 14, 15, gây ra nạn tảo hôn ở trong địa phương.
Theo Khôi Nguyên - Lê Hằng
Gia đình & Xã hội
"Lão tướng" Sùng Đại Dùng đã nằm lại mãi mãi với cao nguyên đá Ngày 20.2.2014, chị Phương Hoa (Báo Hà Giang), rồi em trai tôi - Phó Tổng Biên tập báo TT&VH - đang ngược Mã Pí Lèng công tác (hai người không quen nhau) dường như cùng lúc gọi điện thoại cho tôi, báo tin rầu rĩ: Bác Sùng Đại Dùng ra đi rồi. Xe cấp cứu với bình ôxy, đưa ông từ thành phố...