“Những ngày cuối cùng tại Việt Nam” và tấn bi kịch của Mỹ
Bộ phim tài liệu “Những ngày cuối cùng tại Việt Nam” được trao giải Oscar năm 2014. Trong đó, các nhâ.n chứn.g sống bao gồm những chính khách, sĩ quan Mỹ và chế độ Sài Gòn đã hồi tưởng lại những thời khắc cuối cùng trước thời điểm chính quyền Sài Gòn sụp đổ ngày 30/4/1975.
Thủy thủ tàu khu trục Mỹ USS Kirk đẩy các máy bay trực thăng xuống biển để lấy chỗ cho các trực thăng chở người di tản khác đáp xuống tháng 4/1975. (Ảnh: Corbis Photo)
Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Graham Martin rất yêu thích cây me mọc ở bãi đỗ xe bên ngoài tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, được nhà ngoại giao này thường mô tả là “vững chắc như cam kết của Mỹ tại Việt Nam”. Vào sáng sớm ngày 29/4/1975, lãnh đạo chi nhánh CIA tại Sài Gòn nói với đại sứ Martin rằng cây me đã bị đốn hạ. Người ta cần dẹp quang tất cả các bụi cây trên khu đất để lấy chỗ đậu cho máy bay trực thăng.
Nóc tòa đại sứ là sân đậu trực thăng, song không đủ khả năng nếu đại sứ muốn di tản hàng ngàn người Mỹ và Việt Nam. Lính thủy đán.h bộ Mỹ buộc phải chặt hạ cây me, tạo ra một bãi đáp trực thăng. Hành động mang tính biểu tượng là cú đòn choáng váng đối với đại sứ Mỹ Martin, người vẫn luôn níu kéo giấc mơ chính quyền Sài Gòn sẽ tồn tại lâu dài hơn.
Quá trưa ngày 29/4 một chút, cơ trưởng thủy quân lục chiến Gerald Berry đáp trực thăng xuống nóc tòa đại sứ Mỹ. Berry giục Martin rời đi, nhưng viên đại sứ Mỹ từ chối. Trong khi đó, hàng ngàn nhân viên, sĩ quan chính quyền Sài Gòn đang chen lấn, xô đẩy thục mạng bên ngoài hàng rào tòa đại sứ để tìm cách lọt vào trong. “Tôi cảm thấy nghĩa vụ đạo đức rất lớn trong việc di tản được càng nhiều người càng tốt”, Martin viết trong điện báo gửi Ngoại trưởng Mỹ khi đó là Henry Kissinger.
Đại sứ Martin chỉ là một trong số rất nhiều người suy sụp trong bối cảnh rối bời trong bộ phim tài liệu “Những ngày cuối cùng tại Việt Nam” của đạo diễn Rory Kennedy, đoạt giả.i thưởn.g Oscar phim tài liệu hay nhất năm 2014. Cuốn phim mô tả hết sức chân thực và chi tiết những thời khắc cuối cùng của cuộc chiến của Mỹ tại Việt Nam, tập trung vào các hoạt động và những nhân vật ở đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Đạo diễn cùng ê kíp làm phim đã sử dụng nhiều bộ phim tư liệu, thư từ, dữ liệu ghi âm và băng phỏng vấn các cựu binh Mỹ, chính khách và cả những người sống sót sau cuộc chiến. Các nhâ.n chứn.g sống đã kể lại câu chuyện của chính họ trong “Những ngày cuối cùng tại Việt Nam”.
Nhân vật sầu thảm, cay đắng nhất trong phim chính là đại sứ Mỹ Martin. Nhà ngoại giao Mỹ đã nán lại đến giờ phút cuối cùng mới chịu lên máy bay sơ tán. Đại sứ Martin cũng mất đứa con nuôi trong cuộc chiến tại Việt Nam. Nhà ngoại giao bất hạnh muốn tin rằng nước Mỹ sẽ ở lại xứ sở này mãi mãi để khiến cho cái chế.t của vô số người Mỹ có ý nghĩa nào đó. Tuy nhiên, thực tế quân giải phóng đang thắng như chẻ tre trên khắp miền Nam trong tháng 4/1975 và quân đội chính quyền Sài Gòn được Mỹ hậu thuẫn đã sụp đổ.
Trong thâm tâm, Martin không bao giờ tin rằng những người cộng sản có thể chiếm được Sài Gòn. Khi sân bay Tân Sơn Nhất bị máy bay quân giải phóng né.m bo.m, cắt đứt con đường sơ tán chủ yếu, đại sứ Martin vẫn không tin cho tới khi tận mắt chứng kiến điều đó. Viên đại sứ Mỹ cuối cùng dưới chế độ Sài Gòn đã cố gắng dành những ngày cuối cùng để di tản càng nhiều người nhất có thể. Lính bảo vệ thuộc thủy quân lục chiến Mỹ Mike Sullivan nói: “Việc di tản diễn ra là vì đại sứ Martin muốn như thế”.
Lính Mỹ bị quân giải phóng đán.h tơi bời tại Khe Sanh
Martin từ chối lên trực thăng di tản sớm và là một trong những người Mỹ cuối cùng sơ tán khỏi Sài Gòn trước khi thành phố bị chiếm. Ông ta lần chần suốt nhiều tuần lễ, nuôi hy vọng kéo dài, nhưng kết cục buộc vị đại sứ Mỹ phải làm điều đúng đắn là rời đi.
Video đang HOT
“Cuối tháng 4/1975 toàn bộ những gì liên quan tới Việt Nam là một thế giới thu nhỏ. Những cam kết bị đổ vỡ. Người ta đa.u đớ.n vì chúng ta đã không hành động ăn ý với nhau. Toàn bộ cuộc chiến Việt Nam là một câu chuyện gây ấn tượng như vậy. Mặt khác, đôi khi có những thời điểm người ta đối mặt với những tình huống bất ngờ và làm những điều cần phải làm”, tùy viên quân sự đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn hồi đó là Stuart Herrington giải thích.
Trong khi đó, trên sàn đỗ tàu sân bay USS Midway (CV-41) vào cuối tháng 4/1975 có 10 máy bay trực thăng vận tải hạng nặng thuộc biên chế sư đoàn không vận số 40 và phi đoàn chiến dịch đặc biệt số 40 thuộc không lực Mỹ đang túc trực ngoài Biển Đông để thực hiện chiến dịch sơ tán hàng loạt người Mỹ và các quan chức, sĩ quan chính quyền Sài Gòn. Các thủy thủ Mỹ nhìn thấy lửa đạn pháo và rocket của quân giải phóng nã vào khu vực Vũng Tàu. Đây là đợt tập hợp hạm đội hải quân Mỹ lớn nhất kể từ khi Mỹ leo thang chiến tranh, sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ năm 1964.
Đầu năm 1975, chiến tranh Việt Nam đã trôi khỏi trí nhớ của nhiều người Mỹ như một kỷ nguyên lịch sử đáng quên. Cuộc chiến đã kết thúc, binh lính đã trở về nhà và Tổng thống Ford đã ra lệnh ân xá cho những người trốn quân dịch. Trước bước tiến vũ bão của quân giải phóng Việt Nam được thể hiện trên các tấm bản đồ khổ lớn và ngày càng nhiều tin tức các thị trấn, đô thị rơi vào tay quân giải phóng lên trang nhất các tờ báo Mỹ. Khi tàu sân bay USS Midway từ Nhật tiến xuống phía Nam, nhiều câu hỏi vang lên: Liệu Mỹ có tiếp tục oanh kích? Mỹ có điều động lực lượng lính thủy đán.h bộ trở lại để cứu chế độ Sài Gòn? Những câu hỏi đó cứ râm ran trong lực lượng hải quân, không quân và thủy quân lục chiến Mỹ, cũng như trong các nhà hoạch định chính sách ở Washington và Sài Gòn.
Về mặt chính trị, chính quyền của Tổng thống Nixon đã kết thúc chiến tranh vào năm 1973 và rời nhiệm sở trong tủi hổ. Quốc hội Mỹ và Nhà Trắng cãi lộn nhau do Quốc hội từ chối đề nghị của Tổng thống Ford về việc cung cấp tài chính để mua vũ khí cho quân đội Sài Gòn. Phần lớn người Mỹ vui mừng vì chiến tranh đã chấm dứt. Tại Sài Gòn, đại sứ Mỹ Graham Martin cùng với các nhân viên ngoại giao, tùy viên quân sự và nhân viên CIA bắt đầu tiến hành chiến dịch di tản ồ ạt.
Tùy viên quân sự Herrington buộc phải quyết định về vấn đề “ai đi ai ở”. Nhân viên CIA Frank Sneep khuyên đại sứ Martin chấm dứt hoạt động ngoại giao tại Việt Nam. Sĩ quan đặc nhiệm hải quân SEAL Rick Armitage và thuyền trưởng hải quân Sài Gòn Kiem Do cố gắng tổ chức sơ tán hải quân chế độ Sài Gòn trước khi rơi vào tay quân giải phóng. Trong cuốn hồi ký “Tổn thất không thể bù đắp”, Sneep dẫn lời một đồng nghiệp CIA đưa một nhà báo lên tàu sơ tán đã hỏi rằng: “Vậy, làm thế nào các ông vực được một đất nước đứng dậy?”. Hải quân Mỹ lúc đó phải sắp xếp lại hai tàu sân bay tấ.n côn.g USS Midway và USS Hancock thành hai tàu sân bay trực thăng cùng với tàu đổ bộ trực thăng USS Okinawa LPH-3 làm nhiệm vụ di tản.
“Những ngày cuối cùng tại Việt Nam” cho thấy các tàu sân bay Mỹ được biến thành bãi đáp cho không chỉ trực thăng Mỹ mà còn thành sân bay bất đắc dĩ của nhiều máy bay chế độ Sài Gòn và máy bay của nhân viên CIA bỏ chạy. Một trong những cảnh ấn tượng nhất của chiến dịch di tản trên tàu sân bay USS Midway là cảnh một sĩ quan không quân Sài gòn chở vợ cùng 5 con nhỏ trên một máy bay trinh sát hai chỗ ngồi O-1 Bird Dog di tản. Anh ta bay quanh con tàu chật cứng máy bay và cố ném xuống một mẩu giấy ghi bên lề dòng chữ “Xin hãy cứu tôi, thiếu tá Buang, vợ cùng 5 con”. Thuyền trưởng Laurence Chamber đã phải ra lệnh hất máy bay xuống đuôi tàu để dọn chỗ hạ cánh cho viên phi công và gia đình lần đầu tiên và cũng là duy nhất đáp xuống tàu sân bay.
Tàu sân bay USS Midway chở đầy ắp người di tản và máy bay tháo chạy đi về Guam, sau đó trở lại cứu thủy thủ đoàn tàu chở hàng SS Mayaguez bị Khmer đỏ bắt giữ tại Campuchia. Tuy nhiên, chiến dịch di tản trước khi Sài Gòn sụp đổ năm 1975 vẫn có những chuyện có hậu. Năm 2009, thuyền trưởng Lê Bá Hùng, con trai một sĩ quan hải quân chính quyền Sài Gòn được tàu USS Barbour County (LST-1195) đón tiếp ngoài biển đã chỉ huy tàu khu trục USS Lassen (DDG-82) đại diện hải quân Mỹ thăm hữu nghị Đà Nẵng. Tháng 4/2015, đại tá Lê Bá Hùng với tư cách Phó Chỉ huy Biên đội tàu khu trục số 7, Hạm đội Thái Bình Dương, lại một lần nữa cập cảng Tiên Sa (Đà Nẵng) trong chuyến thăm hữu nghị của hải quân Mỹ tới Việt Nam, nhân dịp kỷ niệm 20 năm Việt-Mỹ bình thường hóa quan hệ.
Theo Thục Ninh
Tiề.n Phong
Ý tưởng tạo kiểu tóc cho Lupita Nyong'o đến chớp nhoáng
Larry Sims, người đã sáng tạo các mẫu tóc cho Lupita Nyong'o thời gian qua, chia sẻ về kiểu tóc ấn tượng của ngôi sao "12 Years a Slave" tại Oscar 2014.
Mái tóc khác biệt, lối trang điểm hài hòa và cách lựa chọn váy áo tinh tế là những điểm nhấn giúp Lupita Nyong'o nhanh chóng trở thành ngôi sao thời trang ở mọi thảm đỏ. Tại Oscar 2014, câu chuyện về chiếc váy như công chúa và bờm tóc vàng sành điệu của cô là đề tài thu hút trên nhiều mặt báo. Larry Sims, người thực hiện kiểu tóc cho Lupita Nyong'o vào đêm trao giải Oscar cho biết, ý tưởng làm tóc chỉ đến tức thì, ngay khi stylist đem đến chiếc bờm tuyệt đẹp.
"Khoảng ba tuần trước, stylist của Lupita, chị Micaela Erlanger đã cho tôi xem vài bộ váy cô ấy dự định mặc trong đêm trao giải. Lúc đó, tôi không biết phải chọn kiểu tóc gì cho hợp. Rồi họ lựa ra năm chiếc váy ưng ý nhất, sau nhiều ngày, cuối cùng mới quyết định chọn chiếc váy xanh nhạt của Prada. Đó là trang phục hãng này thực hiện riêng cho Lupita Nyong'o. Với ý nghĩ đó, tôi bắt đầu nghĩ về kiểu tóc. Nhưng mọi thứ thay đổi khi stylist đưa tôi chiếc bờm tuyệt đẹp. Cô ấy nói: 'Đây là một gợi ý, anh không nhất thiết phải dùng nó'. Nhưng tôi say mê chiếc bờm với những viên kim cương lấp lánh nên quyết định sẽ tạo kiểu tóc phù hợp", Larry Sims chia sẻ.
Kiểu tóc ngắn kết hợp với bờm khác biệt của Lupita Nyong'o tại Oscar 2014.
Ban đầu, khi chưa nhìn thấy chiếc bờm, Larry Sims có ý tưởng tạo kiểu tóc khác, tự do và phóng khoáng hơn. Anh muốn đán.h bồng phần mái. Nhưng khi có phụ kiện đặc biệt trong tay, Larry đã chọn đẩy phần mái về sau, nhường chỗ cho phụ kiện tỏa sáng, dù vẫn tạo độ phồng cho tóc. Vì chiếc bờm rất vừa vặn nên dù Lupita nhảy nhót hay di chuyển nhanh cũng không bị rơi ra.
Cũng để phù hợp với chiếc bờm tóc phát sinh, Larry Sims đã cạo tóc hai bên, vòng một chút ở mái và sau gáy. Sau đó, anh tạo độ phồng ở đỉnh đầu bằng sản phẩm uốn tóc, làm ướt tóc, thoa gel giữ nếp và dùng máy sấy thổi với cường độ mạnh. Sản phẩm này vừa giúp tóc dài nhanh, vừa giữ nếp các lọn xoăn.
Lupita Nyong'o và chuyên gia làm tóc Larry Sims.
Nhiều người tò mò về cách tạo độ phồng cho phần tóc mái của Lupita Nyong'o bởi mỗi lần xuất hiện, tóc mái lại được định hình với kiểu dáng khác nhau. Tuy nhiên, Larry Sims cho rằng đó là bí quyết riêng anh dành cho Lupita nên không muốn tiết lộ.
Nói về Lupita và quá trình hợp tác của cả hai, Larry Sims kể: "Lupita rất trẻ trung, vui tính. Chúng tôi đi lang thang ở Paris, tiệc tùng và nhảy nhót cùng nhau. Cô ấy tin tưởng tôi. Tôi từng là một vũ công, có được sự tinh tế và cá tính, vì thế cô ấy tin vào lựa chọn của tôi. Thật tuyệt khi có được "nàng thơ" mang tính biểu tượng như vậy. Chúng tôi thoải mái thử nghiệm và tạo ra kiểu tóc mà mình thấy thích".
Êkíp làm tóc, trang điểm và stylist của Lupita Nyong'o tại nhiều sự kiện thảm đỏ.
Khi sáng tạo ra những kiểu tóc phá cách, khác biệt, Lupita Nyong'o và cả êkíp cảm thấy vui nhưng cũng gặp không ít áp lực: "Chúng tôi vẫn gặp phải những bình luận ác ý trên Twitter hay Instagram. Nhưng bên cạnh các bình luận tồi tệ đó, cũng có nhiều người nói rằng cô ấy thật phong cách, thời thượng. Vì thế, chúng tôi sẽ mỉm cười và nói rằng, người yêu kẻ ghét là hoàn toàn bình thường", Larry Sims kết luận.
Các kiểu tóc phá cách của Lupita Nyong'o:
Theo VNE
Những bí mật ít người biết về chiếc phong bì của giải Oscar Bên cạnh tượng vàng Oscar danh giá còn tồn tại một biểu tượng "vô giá" - chiếc phong bì Oscar. Nói đến giải Oscar, nhiều người thường nghĩ đến những tượng vàng Oscar. Đó là niềm khao khát mơ, ước cháy bỏng của bất kì đạo diễn, diễn viên hay nghệ sĩ điện ảnh nào. Nhưng bạn có biết, bên cạnh tượng vàng...