Những hành động bất hợp pháp của Trung Quốc ở Trường Sa, Hoàng Sa
Trung Quốc đã và đang tìm mọi cách, viện dẫn nhiều sách, tài liệu địa lý, lịch sử để chứng minh và bảo vệ cho quan điểm pháp lý về quá trình xác lập và thực thi cái gọi là “chủ quyền lịch sử” của Trung Quốc đối với “Tây Sa” và “Nam Sa” (cách gọi của Trung Quốc về 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam).
LTS: Vấn đề Biển Đông cũng như tham vọng độc chiếm Biển Đông đã được Trung Quốc lên chiến lược và “lập trình” từ rất lâu và được phôi thai ngay từ khi thành lập nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (năm 1949) với tham vọng vươn lên làm bá chủ thế giới. Đối với Việt Nam, Trung Quốc đã dùng vũ lực và rất nhiều thủ đoạn xảo trá để xâm chiếm và tạo ra tình trạng tranh chấp chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Mới nhất, Trung Quốc đã có những tuyên bố lố bịch và sai lệch trắng trợn trong việc khẳng định Trung Quốc có chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa, quyền chủ quyền và tài phán đối với vùng nước ở Bãi Tư Chính trong khu vực quần đảo Trường Sa…Có thể nói, đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc đưa ra luận điệu gian dối, “đổi trắng thay đen” đối với âm mưu độc chiếm vùng biển của Việt Nam tại Biển Đông.
Để độc giả có cái nhìn khái quát, toàn diện nhất về những luận điệu hoàn toàn không có cơ sở, kể cả về lịch sử và pháp lý của Trung Quốc, TS. Trần Công Trục – chuyên gia luật biển, nguyên Trưởng Ban biên giới Chính phủ tiếp tục có những phân tích rõ ràng về quá trình, chiêu bài gây hấn của Trung Quốc tại vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam.
TS. Trần Công Trục – chuyên gia luật biển, nguyên Trưởng Ban biên giới Chính phủ (Ảnh: Thành An).
Kỳ 1: Trung Quốc tìm mọi cách xác lập và thực thi “chủ quyền lịch sử”
Để biện minh cho những hoạt động của nhóm tàu địa chất Hải Dương 08 vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam từ đầu tháng 7/2019 đến nay, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nhiều lần khẳng định rằng những hoạt động của nhóm tàu này là hoàn toàn hợp pháp, yêu cầu Việt Nam không được gây cản trở và phải lập tức rút khỏi khu vực này; bởi vì:
1. Bãi Tư Chính (Trung Quốc gọi là bãi “Vạn An Bắc”) là một bộ phận cấu thành của “Nam Sa quần đảo”. Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với quần đảo này.
2. Khu vực “Vạn An Bắc là “vùng biển phụ cận”, “vùng biển liên quan” của “Nam Sa quần đảo”; vì vậy, đây là những vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc.
Trên tinh thần thật sự cầu thị, khách quan, TS. Trần Công Trục đã phân tích, so sánh, đối chiếu, đánh giá những nội dung pháp lý quan trọng dưới “ánh sáng” của Luật pháp và thực tiễn Quốc tế hiện hành để chứng minh tuyên bố trên của Trung Quốc là phi lý, hoàn toàn không có cơ sở.
Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam!
Việt Nam có chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường sa ở giữa Biển Đông. Bởi vì, Nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình đối với 2 quần đảo này từ khi chúng còn là đất vô chủ, chí ít là từ thế kỷ thứ XVII.
Các vùng biển của Việt Nam theo quy định của UNCLOS. Đồ họa: Camau.gov.vn.
Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền của Việt Nam ở 2 quần đảo này là rõ ràng, liên tục, hòa bình, phù hợp với nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ hiện hành – nguyên tắc chiếm hữu thật sự – của Công pháp quốc tế. Việt Nam có đầy đủ các chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý để chứng minh và bảo vệ chủ quyền của mình đối với 2 quần đảo này qua các thời kỳ lịch sử.
Những bằng chứng chứng minh việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo này là hoàn toàn đáp ứng được các điều kiện của nguyên tắc chiếm hữu thật sự:
Thứ nhất: Dưới danh nghĩa Nhà nước, thông qua các tổ chức, đơn vị hành chính do nhà nước lập ra.
Suốt trong 3 thế kỷ, từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX, dù trải qua 3 triều đại khác nhau, đều đã thực hiện sứ mệnh thiêng liêng của mình, với tư cách là Nhà nước Đại Việt, tiến hành chiếm hữu và thực thi chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Đội Hoàng Sa, một tổ chức do nhà nước lập ra để quản lý, bảo vệ, khai thác 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đội Hoàng Sa, về sau lập thêm Đội Bắc Hải do Đội trưởng Đội Hoàng Sa kiêm quản, đã hoạt động theo lệnh của 7 đời chúa, từ chúa Nguyễn Phúc Lan hay Nguyễn Phúc Tần cho đến khi phong trào Tây Sơn nổi dậy.
Trong giai đoạn lịch sử này, có một chứng cứ hết sức quan trọng không thể không đề cập đến khi chứng minh nhà nước phong kiến Việt Nam đã quản lý thật sự, hiệu quả đối với 2 quần đảo này.
Huyện đảo Trường Sa (Khánh Hòa) – đảo Trường Sa lớn nhìn từ phía cầu cảng. (Ảnh: Thành An)
Đó là việc tổ chức đơn vị hành chính của Hoàng Sa (quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa) trong hệ thống tổ chức hành chính của nhà nước lúc bấy giờ. Thời chúa Nguyễn, Hoàng Sa thuộc Thừa Tuyên Quảng Nam hay Quảng Nghĩa (Ngãi), lúc là Phủ khi thì Trấn: “Bãi Cát Vàng trong phủ Quảng Nghĩa” (Toản tập Thiên Nam Tứ chí Lộ đồ thư); “Hoàng Sa ở phủ Quảng Nghĩa, thuộc dinh Quảng Nam, huyện Bình Sơn, xã An Vĩnh” (Phủ biên Tạp lục của Lê Quí Đôn); sang thời Tây Sơn, phủ Quảng Nghĩa đổi thành phủ Hòa Nghĩa. Thời nhà Nguyễn, Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Video đang HOT
Thứ hai: Việc bảo vệ và thực thi chủ quyền là liên tục và hòa bình.
Thời kỳ thực dân Pháp cai trị Việt Nam: Với tư cách là đại diện cho Nhà nước Việt Nam về mặt đối ngoại theo Hiệp ước Patenotre 1884, chính quyền thực dân Pháp đã tiến hành bảo vệ và quản lý 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo đúng thủ tục pháp lý đương đại.
Tiếp đến là thời kỳ Việt Nam tạm thời chia 2 miền Nam Bắc. Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa nằm dưới vỹ tuyến 17 nên thuộc quyền quản lý của chính quyền miền Nam Việt Nam và các chính thể ở miền Nam Việt Nam, với tư cách là những thực thể có tư cách pháp lý trong quan hệ quốc tế, đã tiếp tục bảo vệ và quản lý 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 1954 đến 1975. Các chính thể miền Nam Việt Nam đã liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước, cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này.
Cột hải đăng trên đảo Hoàng Sa năm 1937 (Ảnh tư liệu).
Cũng trong thời gian này, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tuyên bố nêu rõ lập trường của mình trước sự kiện này: Chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ là những vấn đề thiêng liêng đối với mỗi dân tộc; Vấn đề biên giới và lãnh thổ là vấn đề mà giữa các nước láng giềng thường có những tranh chấp do lịch sử để lại; Các nước liên quan cần xem xét vấn đề này trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng tốt và phải giải quyết bằng thương lượng.
Ngày 5/6/1975, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Từ ngày 13-28/4/1975, các lực lượng Quân giải phóng nhân dân Nam Việt Nam dưới sự lãnh đao của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa niềm Nam Việt Nam đã tiếp quản các đảo có quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ, đồng thời triển khai lực lượng đóng giữ các đảo, một số vị trí khác trong quần đảo Trường Sa.
Và, tiếp đến là thời kỳ dưới chính thể Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 2/7/1976, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa 6 (1976-1981), Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất được bầu vào ngày 25/4/1976, đã quyết định đổi tên nước là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoàn toàn có nghĩa vụ quyền hạn tiếp tục quản lý và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa một cách rõ ràng, hòa bình, liên tục và hiệu quả…
Lập luận phi lý của Trung Quốc
Trong khi đó, để thực hiện chiến lược độc chiếm Biển Đông, dùng Biển Đông làm bàn đạp để vươn lên tranh giành vị trí siêu cường quốc tế trong cuộc cạnh tranh địa – chính trị, địa – kinh tế, địa – chiến lược với Hoa Kỳ, Trung Quốc đã dùng vũ lực để xâm chiếm và tạo ra tình trạng tranh chấp chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa vào những năm 1909, 1956, 1974 và một số thực thể ở quần đảo Trường Sa năm 1946, 1950 (Trung Hoa Dân Quốc) và năm 1988 (Cộng hòa nhân dân Trung Hoa).
Tàu cá dân binh đi kèm bảo vệ tàu Địa chất Hải Dương 08 của Trung Quốc đang khảo sát trái phép gần khu vực bãi Tư Chính. (Ảnh: NDCC)
Để biện minh cho sự xâm chiếm bằng vũ lực đó, phía Trung Quốc lập luận rằng Trung Quốc có “chủ quyền lịch sử” đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Họ khẳng định rằng, Tổ tiên người Trung Hoa từ hàng ngàn năm nay trong lịch sử đã phát hiện, khai phá, chiếm hữu, thực thi chủ quyền đối với 2 quần đảo này.
Ngày 27/6/2018, trước những chỉ trích của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis, trong chuyến thăm Trung Quốc diễn ra tại Bắc Kinh, về vấn đề Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông, leo thang căng thẳng và gây lo ngại trong khu vực, Chủ tịch Tập Cận Bình khẳng định: “Lãnh thổ mà tổ tiên (Trung Quốc) để lại, một tấc cũng không được đánh mất. Thứ gì của người khác thì một phân chúng tôi cũng không cần”.
Trung Quốc đã và đang tìm mọi cách, viện dẫn nhiều sách, tài liệu địa lý, lịch sử để chứng minh và bảo vệ cho quan điểm pháp lý về quá trình xác lập và thực thi cái gọi là “chủ quyền lịch sử” của Trung Quốc đối với “Tây Sa” và “Nam Sa”.
Nhưng, theo quan điểm của ông Lý Lệnh Hoa, một chuyên gia nổi tiếng về Công pháp quốc tế, người Trung Quốc, thì: “…chứng cứ (lịch sử đó có ý nghĩa ngày càng nhỏ trong luật quốc tế hiện đại…, chứng cứ thật sự có sức thuyết phục chính là sự kiểm soát thực sự. Anh nói chỗ đó của anh, vậy anh đã từng quản lý nó chưa, người ở đó có phục tùng sự quản lý của anh không, có phải người khác không có ý kiến gì không? Nếu đáp án của những câu hỏi này đều là “có” thì anh thắng là điều chắc. Ở Nam Sa, chúng ta không có được điều đó…”
Bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: “…người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều đảo mọc rải rác, nhưng điều đó không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khám phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này…
Theo TS.Trần Công Trục (Dân Việt)
'Không chấp nhận TQ dùng đường lưỡi bò để xâm phạm vùng biển VN'
Tàu khảo sát Hải Dương 8 và các tàu hộ tống Trung Quốc đã quay trở lại vùng đặc quyền kinh tế của VN từ hôm 13/8, tiếp tục các hành vi gây hấn "dựa trên sức mạnh".
Trong tuyên bố ngày 16/8, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng khẳng định: "Đây là vùng biển hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, được xác định theo các quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982".
Nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Quang Vinh. Ảnh: Việt Linh.
Việt Nam "đã giao thiệp với Trung Quốc, phản đối việc Trung Quốc tái diễn vi phạm nghiêm trọng, yêu cầu Trung Quốc rút toàn bộ nhóm tàu nói trên ra khỏi vùng biển của Việt Nam", bà Hằng cho biết.
Trao đổi với Zing.vn về diễn biến này, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Quang Vinh nhận định Trung Quốc đã xâm phạm vùng biển các nước không chỉ lần này, mà từ nhiều năm qua, trong "mưu đồ kiểm soát Biển Đông" và ngăn cản các nước "khai thác và sử dụng tài nguyên trên những vùng biển hợp pháp" của mình.
Cựu đại sứ Việt Nam tại Mỹ cũng nói nếu không ngăn chặn, đây sẽ là tiền lệ nguy hiểm trong khu vực và Việt Nam cần "chuẩn bị mọi phương án", bao gồm "đưa ra công lý quốc tế" trước hành vi vi phạm công ước luật biển của Trung Quốc.
Tàu Hải dương Địa chất 8 của Trung Quốc. Ông Phạm Quang Vinh nói Trung Quốc đang sử dụng đường lưỡi bò đã bị quốc tế phản bác là phi lý để xâm phạm vùng biển Việt Nam. Ảnh: Cơ quan Khảo sát Địa chất Trung Quốc.
Trung Quốc tái diễn vi phạm: Tiền lệ nguy hiểm ở khu vực
- Tàu Hải Dương Địa Chất 8 cùng các tàu hộ tống đã quay lại xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ ngày 13/8. Ông nhận xét gì về diễn biến này?
- Đây là việc rất nghiêm trọng khi Trung Quốc tái diễn xâm phạm các vùng nước, vùng biển của Việt Nam, vi phạm luật pháp quốc tế và Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982.
Trung Quốc vẫn nói là muốn phát triển quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác với khu vực nhưng chính việc làm này của Trung Quốc đã làm xói mòn lòng tin ở khu vực. Không thể chấp nhận việc Trung Quốc vi phạm luật pháp quốc tế, ỷ vào sức mạnh, sử dụng đường lưỡi bò đã bị quốc tế phản bác là phi lý để xâm phạm vùng biển hợp pháp của các nước.
Việc Trung Quốc tái diễn vi phạm luật pháp quốc tế và UNCLOS hiện nay, nếu không ngăn chặn, sẽ là tiền lệ nguy hiểm ở khu vực và với các nước. Điều này làm xói mòn lòng tin và nỗ lực của khu vực mong muốn hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển, điều có lợi cho tất cả các nước, trong đó có chính bản thân Trung Quốc. Càng là nước lớn, càng phải có trách nhiệm trong việc đóng góp vào hòa bình, ổn định, thực hiện luật pháp quốc tế và công ước luật biển.
- Các nhà quan sát cho biết sau khi rời khu vực vào ngày 7/8, tàu Hải Dương 8 có thể đã đi đến tiếp nhiên liệu tại khu vực Đá Chữ Thập, đảo nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng trái pháp luật thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Các đảo nhân tạo này đã bắt đầu được Trung Quốc tận dụng, phục vụ cho các hành vi hung hăng trên Biển Đông?
- Trung Quốc tôn tạo các đảo đá ở Biển Đông nhằm thực hiện mưu đồ kiểm soát Biển Đông. ASEAN và các nước đã phản đối, bác bỏ việc làm này của Trung Quốc, coi đây là hành động bất hợp pháp. Nay họ lại dùng làm căn cứ để xâm phạm vùng biển hợp pháp của các nước khác thì lại càng không thể chấp nhận.
Lúc này, hơn bao giờ hết, quốc tế và khu vực càng cần lên tiếng phản đối các hành vi vi phạm của Trung Quốc, trong đó có việc tôn tạo trái phép, quân sự hóa ở các đảo đá, bãi tạm ở Biển Đông.
- Điều tàu thăm dò địa chất xuống khu vực nam Biển Đông, liệu Trung Quốc có ý đồ muốn Việt Nam từ bỏ ý định khai thác dầu khí ngay trên vùng đặc quyền kinh tế của mình và khiến các công ty nước ngoài e sợ khi hợp tác với VN?
- Trước hết, cần phản đối việc Trung Quốc xâm phạm vùng biển hợp pháp của Việt Nam. Đây là sự vi phạm luật pháp quốc tế, công ước luật biển. Trung Quốc đã xâm phạm vùng biển các nước không chỉ lần này mà từ nhiều năm qua.
Quốc tế cần cảnh giác và phản đối việc Trung Quốc mưu toan áp đặt đường lưỡi bò, biến vùng biển của các nước thành vùng tranh chấp để xâm phạm và tìm cách kiểm soát khu vực Biển Đông. Điều này không có lợi cho hòa bình, ổn định và an ninh, an toàn trong khu vực. Thế giới cần phải phản bác điều đó.
Thứ hai, bằng việc lấn tới như vậy, Trung Quốc mưu toan cản phá các nước thực thi các quyền hợp pháp của mình, trong đó có việc khai thác và sử dụng tài nguyên trên những vùng biển hợp pháp theo luật pháp quốc tế và UNCLOS.
Cần nhấn mạnh, Trung Quốc không chỉ làm vậy với Việt Nam, mà còn với nhiều nước trong khu vực. Việc này là không thể chấp nhận và là tiền lệ nguy hiểm, cần phải bị phản bác.
Tàu hải cảnh 3901 của Trung Quốc tham gia hộ tống tàu Hải dương Địa chất 8. Ông Phạm Quang Vinh nói Trung Quốc đang dùng các đảo nhân tạo, xây dựng trái pháp luật làm căn cứ hậu cần để xâm phạm vùng biển hợp pháp của các nước. Ảnh: SCMP.
Việt Nam chuẩn bị "mọi phương án", bao gồm "đưa ra công lý quốc tế"
- Việt Nam có nên cân nhắc biện pháp pháp lý trước các hành động vi phạm luật pháp quốc tế và công ước luật biển của Trung Quốc?
- Chúng ta muốn hoà bình, hoà hiếu, song kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển đảo. Chúng ta luôn dựa trên luật pháp quốc tế, công ước luật biển để nói với quốc tế và khu vực chính nghĩa của mình và yêu cầu Trung Quốc phải tuân thủ.
Thời gian qua, chúng ta đã luôn căn cứ vào những quy định của luật pháp quốc tế để đấu tranh với Trung Quốc, để kêu gọi cộng đồng quốc tế.
Chúng ta cũng luôn kiên trì đối thoại với Trung Quốc, yêu cầu tôn trọng luật pháp quốc tế. Chúng ta cũng kêu gọi công luận chú trọng và đề cao việc các nước, nhất là Trung Quốc, phải tuân thủ luật pháp quốc tế, công ước luật biển. Đây là điều rất quan trọng.
Nhưng tôi tin rằng, chúng ta đã và sẽ chuẩn bị mọi phương án phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm cả việc sử dụng các biện pháp đưa ra công lý quốc tế để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp trên biển của mình theo đúng luật pháp quốc tế và công ước luật biển.
Không bao giờ có thể chấp nhận Trung Quốc biến vùng biển hợp pháp của ta thành vùng tranh chấp. Chúng ta không loại trừ và cần áp dụng mọi biện pháp phù hợp với luật pháp quốc tế để bảo vệ chủ quyền biển đảo chính đáng của mình.
- Phán quyết tháng 7/2016 của Tòa Trọng tài Thường trực quốc tế (PCA) trong vụ Philippines kiện Trung Quốc, đã bác bỏ các yêu sách chủ quyền bằng đường 9 đoạn của Trung Quốc tại Biển Đông. Phán quyết này có thể áp dụng khi Trung Quốc đưa tàu vào xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế ở Việt Nam?
- Phán quyết của Tòa án PCA năm 2016 là thể theo quy định của UNCLOS và để thống nhất cách diễn giải và áp dụng công ước này ở Biển Đông.
Phán quyết của Toà do vậy hoàn toàn có giá trị pháp lý và là một bộ phận của luật pháp quốc tế. Từ nay, bất kỳ việc xử lý tranh chấp nào cũng sẽ có thể viện dẫn phán quyết để xử lý và diễn giải công ước.
Phán quyết của Tòa trọng tài rất quan trọng. Trước hết, Toà đã phản bác Trung Quốc dùng căn cứ lịch sử và đòi hỏi chủ quyền theo đường lưỡi bò, và theo đó, bác bỏ việc Trung Quốc dùng đường lưỡi bò để can thiệp vào vùng biển hợp pháp của các nước.
Phán quyết đã là một bộ phận của luật pháp quốc tế. Vì vậy, Việt Nam và quốc tế cần nhấn mạnh giá trị pháp lý của phán quyết. Cộng đồng quốc tế, càng nhiều nước trong và ngoài khu vực lên tiếng, ủng hộ thì hiệu lực, hiệu quả của phán quyết sẽ càng có giá trị, dù Trung Quốc có muốn hay không, hoặc tìm cách chống lại phán quyết.
Nhóm tác chiến tàu sân bay USS John C. Stennis (CVN-74) của Mỹ trong một lần hoạt động trên Biển Đông hồi đầu năm 2019. Ông Phạm Quang Vinh nói quốc tế phải phản bác và yêu cầu Trung Quốc chấm dứt các hành vi vi phạm. Ảnh: Hải quân Mỹ.
Trung Quốc mưu toan "biến vùng biển hợp pháp thành vùng tranh chấp"
- Việt Nam cần phải làm gì trước các hoạt động trên của Trung Quốc?
- Bãi Tư Chính nằm trong vùng thềm lục địa của Việt Nam, hoàn toàn là vùng nước hợp pháp của Việt Nam theo công ước luật biển, không dính gì đến những vùng tranh chấp ở Trường Sa.
Đây là điều chúng ta cần làm rõ, không thể chấp nhận và phải kiên quyết bác bỏ các lập luận mập mờ của Trung Quốc, với mưu toan biến vùng biển hợp pháp của ta thành vùng tranh chấp, để xâm lấn.
Việt Nam đã luôn thể hiện lập trường hoà bình và chính nghĩa trên cơ sở luật pháp quốc tế, kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình, bao gồm các vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa theo đúng luật pháp quốc tế và công ước luật biển.
Đồng thời, chúng ta cần tiếp tục đề cao "công pháp, công luận và công khai", cũng như duy trì sự hiện diện và thực thi pháp luật của các lực lượng chức năng, chấp pháp của Việt Nam tại các vùng biển của chúng ta. Chúng ta không chấp nhận bất cứ ai xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng biển hợp pháp của mình.
Việt Nam chủ trương hòa bình, hòa hiếu, thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc, nhưng chúng ta cũng nói rõ không chấp nhận việc Trung Quốc xâm phạm và yêu cầu Trung Quốc tôn trọng các vùng biển hợp pháp của Việt Nam như luật pháp quốc tế quy định.
Việt Nam cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế và khu vực phải lên tiếng đòi Trung Quốc tôn trọng luật pháp quốc tế và công ước luật biển. Lập trường của Việt Nam trước sau như một: vừa theo đuổi hòa bình, hòa hiếu, nhưng vẫn dựa vào luật pháp quốc tế, kêu gọi công luận ủng hộ, đồng thời tiếp tục sự hiện diện các lực lượng thực thi pháp luật của mình trên biển để đảm bảo chủ quyền, cũng như đóng góp vào hòa bình và ổn định khu vực.
- Trách nhiệm của khu vực và quốc tế như thế nào trước các hành động vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc?
- Hòa bình, an ninh, an toàn hàng hải ở Biển đông là lợi ích chung của quốc tế, khu vực và các nước. Do vậy, cộng đồng quốc tế, các nước trong và ngoài khu vực cần và có trách nhiệm đóng góp vào duy trì trật tự, luật pháp quốc tế ở khu vực này.
Việc Trung Quốc hay một vài nước nói các nước ngoài khu vực không được có tiếng nói hay đóng góp vào hòa bình, an ninh và hợp tác ở khu vực là không đúng. Trong các khuôn khổ hợp tác của mình, ASEAN cũng đã luôn đề cao sự hợp tác và đóng góp của các nước về việc này.
Quốc tế và khu vực cần phải phản bác và yêu cầu Trung Quốc chấm dứt các hành vi vi phạm hiện nay, bảo đảm tôn trọng luật pháp quốc tế. Nếu không ngăn chặn, các hành động xâm phạm của Trung Quốc sẽ là tiền lệ nguy hiểm đối với các nước, với khu vực và quốc tế, với các nỗ lực về hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển trong khu vực.
Mọi quốc gia, dù lớn hay bé, đều phải có trách nhiệm tôn trọng luật pháp quốc tế, đóng góp vào hòa bình, ổn định, phát triển ở khu vực, bao gồm bảo đảm hoà bình, an ninh, an toàn hàng hải và duy trì trật tự, an ninh trên biển ở Biển Đông.
Tự do hàng hải, tự do hàng không ở trên biển, bao gồm ở khu vực Biển Đông, là quyền và quyền lợi của các nước theo công ước luật biển. Theo đó, các nước, trong và ngoài khu vực, đều có trách nhiệm, đóng góp vào hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở khi vực này.
- Xin chân thành cảm ơn ông!
Theo Zing.vn
Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố tập trận trái phép hai ngày ở Hoàng Sa Cục Hải sự Hải Nam (Trung Quốc) hôm nay ngang nhiên ra thông báo, quân đội Trung Quốc sẽ tổ chức hai cuộc tập trận trái phép tại quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Cuộc tập trận thứ nhất diễn ra trong khoảng 9h30-11h30 và 15h-18h ngày 6/8, bên trong khu vực giới hạn bởi 4 tọa độ 16 độ 50,6 phút...