Những đề xuất cải cách giáo dục khiến dư luận tranh cãi gay gắt
Các đề xuất giáo dục như: Cải cách bảng chữ cái tiếng Việt, loại bỏ tác phẩm ‘ Chí Phèo’ khỏi sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11, mới đây nhất là cải cách SGK lớp 1 ‘Công nghệ giáo dục’… gây khá nhiều tranh cãi và nhận được phản hồi đa chiều từ dư luận.
1. Cải cách SGK lớp 1 “Giáo dục công nghệ” Vừa qua, Hội đồng quốc gia thẩm định SGK đã công bố quyết định thẩm định Bộ SGK lớp 1 – “Công nghệ giáo dục” của GS Hồ Ngọc Đại xếp loại “không đạt” với lý do sách “vượt chương trình”, “quá khó với học sinh lớp 1″
Trước đó, bộ sách này đã nhiều lần khiến dư luận xôn xao. Phần lớn phụ huynh có phản ứng tiêu cực khi thấy con đọc thơ qua các hình tam giác, ô vuông mà không đánh vần chữ, từ đó cho rằng phương pháp học này phản khoa học, khó hiểu, học vẹt
Nhiều thầy cô giáo đã dạy học theo chương trình sách “Công nghệ giáo dục” lại cho rằng đây là cách tiếp cận mới và có tác dụng cao. Trẻ sẽ hiểu được bản chất nên nhớ rất lâu và không bị tái mù chữ. Sau 3 tháng, trẻ có thể tự đọc và ghi lại rất chắc chắn, hầu như các em không quên
Đáng nói là, bộ sách này đã được triển khai dạy học trong nhiều nhà trường suốt 40 năm qua với khoảng 900.000 học sinh theo học, nay lại bị loại bỏ, khiến dư luận hoang mang liệu có gây khó khăn trong việc dạy và học cho các trường đang áp dụng hay không
Cụ thể, năm 1978, sách bắt đầu được đưa vào giảng dạy. Từ năm 2000, bộ sách được thí điểm trong phạm vi hẹp. Năm 2006, bộ sách được triển khai giảng dạy cho học sinh dân tộc thiểu số, 2 năm sau đó được thí điểm trong khoảng 20 tỉnh. Đến năm 2012, bỏ thí điểm, mở rộng phạm vi áp dụng sách. Năm 2019, bộ sách được yêu cầu tái thẩm định
“Tôi thanh thản sau khi sách công nghệ giáo dục bị loại khỏi vòng thẩm định. Còn ý kiến cá nhân tôi cho rằng biểu quyết của tập thể không phải lúc nào cũng đúng. Điều quan trọng là nghe cái gì, nghe ai, ai nói”, GS Hồ Ngọc Đại nói
2. Đề xuất thay đổi bảng chữ cái tiếng Việt của PGS.TS. Bùi Hiền Năm 2017, PGS.TS. Bùi Hiền đưa ra đề xuất thay đổi bảng chữ cái tiếng Việt từ 38 ký tự rút xuống còn 31 ký tự. Trong đó: bỏ chữ Đ và bổ sung chữ cái tiếng Latin F, J, W, Z; đồng thời thay đổi giá trị âm vị của 11 chữ cái hiện có trong bảng trên
Theo đó, “tiếng Việt” sẽ viết thành “tiếq Việt”, “nhà nước” là “n’à nướk”, “Luật giáo dục” phải viết là “luật záo zụk”, “ngôn ngữ” là “qôn qữ”
Video đang HOT
Ông cho rằng, điều đó sẽ giảm được khó khăn cho người dùng, không gây lẫn lộn và bất cập. Tuy nhiên, đề xuất này vừa được công bố ngay lập tức đã nhận được phản ứng gay gắt từ phía dư luận. Nhiều người cho rằng, cách viết này kỳ quái, làm mất sự trong sáng của tiếng Việt
Các chuyên gia ngôn ngữ học cũng “vào cuộc” phân tích. PGS.TS Nguyễn Hồng Cổn, Giám đốc TT Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam, Đại học KHXH &NV – ĐHQG Hà Nội cho rằng: đề xuất của PGS.TS. Bùi Hiền về cơ bản hệ thống chữ quốc ngữ hiện hành, nếu được áp dụng sẽ gây ra tình trạng lộn xộn về chính tả vì sự xung đột giữa thói quen viết lối cũ với cách viết
Ông cho biết thêm: “Đây chỉ là một báo cáo khoa học của cá nhân chứ không phải là đề xuất của một tổ chức khoa học hay cơ quan nhà nước nào nên mọi người cũng không nên quan trọng hóa vấn đề. Ít ra đây cũng là dịp để mọi người hiểu biết hơn về chữ quốc ngữ và cách ứng xử với nó”
3. Đề xuất loại tác phẩm “Chí Phèo” khỏi SGK Ngữ văn 11 “Chí Phèo” là một truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn Nam Cao được đánh giá là một trong những tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc trước Cách mạng tháng 8/1945 và được đưa vào chương trình giáo dục cấp phổ thông trung học, nằm trong bộ sách Ngữ văn lớp 11 từ rất lâu
Tháng 12-2017, T.S Nguyễn Sóng Hiền – NCS tiến sĩ Trường ĐH Newcastle (Australia) bất ngờ đề xuất loại bỏ tác phẩm này ra khỏi chương trình học để tránh tác động xấu đến mặt nhận thức của học sinh – giai đoạn mà tâm sinh lý các em phát triển khá phức tạp, dễ tiêm nhiễm cái xấu
Anh cho rằng: “Ở khía cạnh văn học, tác phẩm “Chí Phèo” có thể được đáng giá là thành công về phong cách viết. Tuy nhiên, bản thân tác phẩm “Chí Phèo” không có ý nghĩa nhiều về mặt giáo dục, mà ngược lại, có thể có những tác động xấu về mặt nhận thức của học sinh”
Theo anh, Chí là một cá nhân xin đểu, đập phá, chửi bới, rạch mặt ăn vạ, cưỡng bức, giết người lúc say, “đó là hành vi không phải của một con người. Cho dù ở bất kỳ xã hội nào, những hành động đó đều đáng bị lên án. Đâu ai dám chắc được rằng tất cả học sinh có thể nhận thức được cái hay của tác phẩm, hay chỉ nhìn vào những cái xấu của nhân vật Chí để bắt chước”
Ngay lập tức, ý kiến này nhận được rất nhiều ý kiến trái chiều từ dư luận. Tiến sĩ văn học Trịnh Thu Tuyết phản biện rằng: “Cách nhìn nhận của Sóng Hiền không liên quan đến văn chương và lệch lạc”. Với giá trị một kiệt tác của văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945, truyện ngắn Chí Phèo “luôn xứng đáng tồn tại bên cạnh bất kỳ tác phẩm nào trong các giai đoạn trước và sau nó”
PGS. Đỗ Ngọc Thống – Tổng chủ biên chương trình môn Ngữ văn mới cũng nói: “Với tôi bài viết ấy không đáng bàn, vì hiểu về tác phẩm Chí Phèo như thế chứng tỏ trình độ tiếp nhận tác phẩm văn học của người viết rất thấp”
Bên cạnh những ý kiến phản đối gay gắt, cũng có ý kiến cho rằng đây là một đề xuất đáng để suy ngẫm và cân nhắc vì nội dung tác phẩm đã không còn phù hợp với thời đại mới và có thể tác động tiêu cực đến hiện tại
Hoa Nguyễn (Tổng hợp)
Theo baomoi
Bốn chữ "THẬT" trong cải cách giáo dục
Chất lượng giáo dục gần đây trở thành một đề tài tranh luận thường xuyên. Tuy nhiên, có một câu hỏi đơn giản cần được trả lời rốt ráo: Thế nào là một nền giáo dục tốt?
Ngày 3/9/1945, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ Việt Nam độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi tiêu diệt giặc đói và giặc dốt. (Thiếu tiền, thiếu giáo viên, nhưng bằng cách huy động toàn dân, từ một quốc gia trên 90% mù chữ, chúng ta đã nhanh chóng trở thành một quốc gia có trên 90% dân số biết đọc, biết viết - một chỉ số ngang với những quốc gia phát triển).
Việc trả lời câu hỏi này sẽ giúp chúng ta trả lời một câu hỏi khác: Chất lượng giáo dục của chúng ta chưa tốt ở những điểm nào và vì sao? Chỉ sau khi trả lời được hai câu hỏi này, chúng ta mới có thể hoạch định chiến lược và lựa chọn giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục.
Các bài viết về giáo dục trên báo chí thường không đưa ra tiêu chí thế nào là một nền giáo dục tốt, mà chỉ nói về những mặt mà người ta coi là tồi tệ của nền giáo dục Việt Nam: sự lạc hậu của triết lý giáo dục, tính áp đặt của phương pháp dạy học, sai lầm và tham nhung trong đầu tư, sự yếu kém về quản lý tài chính, sự xa rời giữa nhà trường với đời sống, nạn dạy thêm học thêm...
Với giáo dục đại học, còn thêm các vấn đề khác như sự yếu kém trong nghiên cứu khoa học, trình độ ngoại ngữ của giảng viên quá thấp, nạn bằng giả, vấn đề thất nghiệp của sinh viên ra trường...
Cơ quan quản lý giáo dục cung khá lúng túng với những cải cách chương trình, sách giáo khoa, các dục tốt chung chung, mà chỉ có nền giáo dục tốt cho ai, lúc nào, trong điều kiện kiện nào.
Vậy, thế nào là một nền giáo dục tốt?
Gần đây, nhiều trường đại học của chúng ta đang tập trung nỗ lực vào việc cải thiện vị trí trong các bảng xếp hạng. Chúng tôi không phủ nhận tuyệt đối vai trò của các bảng xếp hạng và các tổ chức kiểm định. Các bảng xếp hạng, dù nặng về tiêu chí kỹ thuật như Webometrics hay đầy tính thương mại như QS Stars University Ratings, cung ít nhiều có ích, chí ít là về mặt quảng bá hình ảnh. Nhưng đó cung chỉ là một dữ liệu tham khảo.
Giống như điều chúng ta mong muốn nhất ở con cái là ngoan và giỏi, chứ không phải là một danh hiệu nào đó, chúng ta không được đồng nhất chất lượng giáo dục với việc đáp ứng những tiêu chí máy móc của một bảng xếp hạng hay một tổ chức kiểm định nào đó. Bởi lẽ, không có nền giáo dục tốt chung chung, mà chỉ có nền giáo dục tốt cho ai, lúc nào, trong điều kiện kiện nào.
Nền giáo dục tốt cho Việt Nam, theo chúng tôi, phải hội đủ ba tiêu chí: Thứ nhất, đáp ứng được nhu cầu hiện tại của đất nước; Thứ hai, đáp ứng được khát vọng phát triển của dân tộc trong tương lai; Thứ ba, khả thi trong hoàn cảnh kinh tế, xã hội của đất nước.
Tiêu chí thứ nhất đòi hỏi chúng ta phải có quan điểm cụ thể và lịch sử trong cách tiếp cận. Các nền giáo dục Hoa Kỳ hay Singapore là những nền giáo dục tốt, nhưng chưa chắc đã tốt cho Việt Nam. Hoa Kỳ là một nước phát triển cao, có nền kinh tế tri thức hậu công nghiệp, dựa trên nền tảng dịch vụ và công nghệ cao, trong khi Việt Nam là một nước đang phấn đấu để công nghiệp hóa, với nền kinh tế năng suất thấp, đa số người dân lao động nông nghiệp hoặc gia công đơn giản.
Sự khác biệt với Singapore cung rất lớn. Singpore là một thành phố cảng, với diện tích chỉ lớn hơn đảo Phú Quốc đôi chút, nhưng lại cực kỳ thuận lợi về hàng hải, hàng không, nên thiên về phát triển dịch vụ, du lịch và khai thác thế mạnh địa chính trị trong giao lưu quốc tế.
Trong khi đó, Việt Nam là một nước tương đối lớn, có địa hình phong phú, dân số đông, với nhiều vấn đề phức tạp do chiến tranh và các yếu tố lịch sử khác để lại.
Ro ràng, nhiệm vụ và những vấn đề đặt ra đối với nền giáo dục Việt Nam phải khác: mặc dù có những phần chung, những kiến thức cần thiết cho người làm vườn phải khác kiến thức dành cho các chuyên gia hàng không vu trụ và các hoa tiêu hàng hải.
Sinh viên khoa Công nghệ Hóa, Đại học Công nghiệp Hà Nội với nghiên cứu khoa học ứng dụng xử lý nước thải xỉ mạ từ bùn đỏ Tây Nguyên.
Tiêu chí thứ hai đòi hỏi chúng ta phải có tầm nhìn dài hạn. Mặc dù có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu nhân lực cho các mục tiêu trước mắt, nền giáo dục quốc dân phải có khả năng phát triển cùng nhịp với sự phát triển của đất nước và khả năng hội nhập nhanh chóng vào nền giáo dục thế giới trong tương lai.
Điều này giống như khi ta xây dựng một con đường. Vì nhu cầu còn thấp, nguồn vốn ít, ta chỉ cần làm một con đường nhỏ, chất lượng tốt. Nhưng cần phải dành sẵn một dải đất bên cạnh để có thể mở rộng khi cần. Muốn vậy, chúng ta có một triết lý giáo dục đúng đắn, dựa trên ba nhiệm vụ cốt loi của mọi nền giáo dục, đó là đào tạo ra: Con người lao động; Con người yêu nước và Con người tự do (con người nhân loại). Trong ba mục đích này, mục đích thứ nhất là mục đích có tính lịch sử và thực tiễn cao nhất, cần được điều chỉnh theo thực tiễn cuộc sống.
Tiêu chí thứ ba đòi hỏi chúng ta phải có cách tiếp cận thực tế. Chúng ta không cần và cung không thể sao chép y nguyên mô hình đại học Harvard hay Oxford. Là một nước còn nghèo, có truyền thống văn hóa khác hẳn, chúng ta không thể có nguồn lực tài chính, con người và cả thời gian để sao chép như vậy. Một nền giáo dục tốt phải có một mô hình khả thi trong điều kiện cụ thể.
Một ví dụ xuất sắc là nền giáo dục của Chính phủ Hồ Chí Minh sau Cách mạng tháng Tám. Ngày 3/9/1945, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ Việt Nam độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi tiêu diệt giặc đói và giặc dốt. Thiếu tiền, thiếu giáo viên, nhưng bằng cách huy động toàn dân, từ một quốc gia trên 90% mù chữ, chúng ta đã nhanh chóng trở thành một quốc gia có trên 90% dân số biết đọc, biết viết - một chỉ số ngang với những quốc gia phát triển. Từ chỗ chỉ có một trường đại học với số sinh viên ít ỏi, chúng ta hiện có hàng trăm trường đại học, hàng triệu người tốt nghiệp đại học và hàng ngàn thạc sĩ, tiến sĩ.
Hoạt động của sinh viên CLB Nghiên cứu khoa học - Khoa Công nghệ kỹ thuật Điện Điện tử, trường Đại học Đông Á.
Vậy tại sao ngày nay, trong điều kiện thuận lợi hơn nhiều, nền giáo dục lại rơi vào khủng hoảng?
Một trong những lý do quan trọng nhất là sự trì trệ của ngành giáo dục trong khi hoàn cảnh đất nước và thế giới đã thay đổi. Thêm nữa, khi nhận ra sự chậm trễ đó, chúng ta lại mắc một sai lầm khác, đó là chạy theo các mô hình xa lạ.
Theo chúng tôi, công cuộc cải cách giáo dục của chúng ta chỉ có thể thành công nếu đáp ứng được bốn yêu cầu, mà tôi tóm tắt bằng bốn chữ "thật".
Thứ nhất là "nhìn thật": phải nhìn thẳng vào thực tiễn, chứ không phải là xuất phát từ ước muốn hay lý thuyết xa xôi.
Thứ hai là "nghĩ thật": phải phân tích thực tiễn một cách khách quan, khoa học.
Thứ ba là "nói thật": Phải trao đổi thẳng thắn cởi mờ và thành thật về các vấn đề thực tiễn, từ đó tìm ra được con đường phù hợp, tối ưu để phát triển nền giáo dục nước nhà.
Thứ tư là "làm thật": Phải giải quyết vấn đề một cách thật sự, triệt để, chứ không nửa vời.
Tóm lại, bí quyết của sự phát triển là xóa bỏ sự dối trá trong cách nhìn, cách nghĩ, cách nói và cách làm.
TS NGÔ TỰ LẬP - Viện trưởng Viện Quốc tế Pháp ngữ
Theo enternews
Bạn đọc viết: Con học lớp 1, có gì mà lo? Trẻ con học lớp 1 trở thành chủ đề tranh luận sôi sục trên nhiều diễn đàn mạng. Phụ huynh đăng "tút" trên Facebook tìm thầy cô, mọi người mách nhau chỗ này, chỗ kia thầy cô luyện chữ đẹp, là giáo viên giỏi cấp huyện, có kinh nghiệm mười mấy năm đứng lớp 1, học sinh vào tay thầy cô đều viết...