Những day dứt của các cựu binh Mỹ ngày trở lại Việt Nam
Day dứt với những hậu quả do chiến tranh gây ra, nhiều cựu chiến binh Mỹ đã quay trở lại Việt Nam và có các hoạt động nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh, trợ giúp các nạn nhân bom mìn, chất độc da cam.
Một nhóm cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam đã trở lại dải đất hình chữ S trong khuôn khổ chuyến thăm do Hội Cựu chiến binh vì Hòa Bình (VFP) của Mỹ tổ chức từ 16/4-2/5, đúng dịp kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam.
Một vài người trong số họ từng quay trở lại Việt Nam nhưng cũng có một số chưa từng trở lại. Họ có những ký ước riêng để chia sẻ, nhưng đều day dứt về những hậu quả mà cuộc chiến để lại và có chung mong muốn góp phần hàn gắn vết thương chiến tranh cũng như thúc đẩy quan hệ song phương Việt-Mỹ. Họ đã đến Hà Nội trước khi thăm lại chiến trường xưa.
Suel Jones: Yêu Việt Nam ngay từ lần đầu trở lại
Cựu chiến binh Suel Jones
Ông Suel Jones từng là lính thủy đánh bộ, tham chiến tại Đông Hà, Cam Lộ, Cửa Việt, Khe Sanh, Quảng Trị năm 1968. Jones nói ông ghét phải kể lại những việc đã làm trong chiến tranh, nhưng thừa nhận nhiệm vụ của ông cầm súng giết những người ở bên kia chiến tuyến.
Jones rời Việt Nam năm 1969 và trở lại lần đầu tiên năm 1998. Ông nói đã yêu Việt Nam ngay từ lần đầu trở lại ấy nên còn tiếp tục quay lại. Năm 2000, Jones chuyển tới sống tại Hà Nội và kể từ đó tới nay ông qua lại hàng năm giữa Mỹ và Việt Nam.
“Càng sống tại đất nước các bạn, tôi càng hiểu về đất nước, con người Việt Nam, yêu th ẩm thực, phố phường. Tôi nhận ra mình rất yêu Việt Nam”, cựu binh Mỹ tâm sự.
Ông nói Việt Nam đã thay đổi rất nhanh, ngoài sức tưởng tượng của ông. Trong lần trở lại này, ông đã rất ngạc nhiên với một con đường mới, to đẹp trên đường từ sân bay Nội Bài về trung tâm Hà Nội. Thời mới trở lại Việt Nam, Jones nói những con đường còn rất nhỏ và ông phải bắt xe ôm ra sân bay.
Trong nhiều năm sau chiến tranh, Jones từng không nghĩ sẽ trở lại Việt Nam. “Nhưng khi trở lại rồi, người Việt Nam đã bắt tay tôi và cho tôi tình cảm thực sự và tôi không còn cảm thấy lo lắng. Tôi đã dặn mình không nghĩ về quá khứ nữa vì khi bạn sống trong quá khứ, bạn sẽ thấy đau khổ. Bạn nên hướng về tương lai, hi vọng. Tôi học điều này từ người dân Việt Nam”.
Jones cho hay đã nhận ra rằng người Mỹ và người Việt có nhiều điểm chung. “Người Việt Nam rất yêu nước, tôi cũng yêu đất nước của tôi. Các bạn yêu gia đình và làm việc rất chăm chỉ. Tôi cũng yêu gia đình tôi và tôi cũng làm việc cần mẫn. Càng ngày tôi càng nhận ra rằng dù chúng ta sống cuộc sống khác nhau nhưng chúng ta có nhiều điểm tương đồng”.
Ông trở lại nhiều lần để trợ giúp khắc phục hậu quả chiến tranh để lại. Jones hiện là thành viên của tổ chức Cựu Chiến binh Mỹ vì Hòa bình (VFP). Tổ chức của ông hoạt độn nhiều nơi, trong đó có Quảng Trị. Họ trợ giúp rà phá bom mìn chưa nổ, giúp các nạn nhân chiến tranh xây lại nhà cửa hay phát quà cho họ. Jones nói ông cảm thấy rất vui khi làm những việc đó bởi nó phần nào khắc phục những hậu quả do chiến tranh gây ra, giúp ông cảm thấy thanh thản trong tâm hồn.
Rất may mắn là có nhiều cựu chiến binh Mỹ quay trở lại Việt Nam và làm những điều rất nhỏ như dạy tiếng Anh cho trẻ em, Jones nói. Nhóm của ông đang cố gắng vận động nhiều hơn nữa các cựu chiến binh Mỹ để tham gia vào các hoạt động có ích như vậy.
Jones tâm sự ông giờ đã cao tuổi và có thể không sống được bao lâu nữa, nhưng các bạn trẻ không phải trải qua chiến tranh. Hai nước có tình bạn với nhau thế hệ trẻ phải cùng chung tay xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn.
“Tôi rất đồng ý với ý kiến của Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius. Những năm 1998-99 tôi không thể tưởng tượng được Việt Nam lại thay đổi như bây giờ. Tôi nghĩ rằng câu nói của đại sứ rằng “Mọi thứ đều có thể” là hoàn toàn có thể xảy ra”, Jones nói.
Louis Andre: Tôi đã bị lừa dối khi là lính trẻ
Ông Louis Andre
Louis Andre từng là lính đặc nhiệm của Mỹ, đóng quân tại vùng núi ở tỉnh Quảng Trị. Ông rời Việt Nam tháng 2/1970, sau đó ra quân và trở thành một công dân bình thường.
Video đang HOT
Andre nói ông đã mạnh mẽ phản đối chiến tranh Việt Nam sau khi rời quân ngũ. Ông đã tuần hành để phản đối chiến tranh, tham gia cùng các cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến tại Việt Nam.
Chiến tranh dần lùi xa khi Andre lập gia đình và có 3 con. Ông không trò chuyện hay gặp gỡ ai từ thời chiến tranh Việt Nam. Nhưng 5 năm trước, một cựu chiến binh cùng nhóm với ông đã đổ bệnh do chất độc da cam và muốn Adnre tìm lại các cựu chiến binh còn sống sau chiến tranh.
Sau đó, Andre đã dành thời gian để quan tâm tới hậu quả của cuộc chiến. “Cho dù kết cục có thế nào, chúng tôi cũng phải giải quyết các hậu quả do chiến tranh gây ra… Những điều tồi tệ chúng tôi từng làm trong chiến tranh đã để lại hậu quả lâu dài. Những gì chúng tôi gây ra là những điều chúng tôi bị lừa dối khi còn trẻ và đã đến lúc mỗi cá nhân như tôi nên tham gia vào việc có thể làm điều gì đó để khắc phục các hậu quả đó”.
Trong chuyến thăm lại Việt Nam lần đầu tiên, ông Andre đã đưa người vợ Dena đi cùng. Họ cũng có kế hoạch thăm lại chiến trường cũ ở Quảng Trị.
Andre nói ông đã quyền tiền cho việc rà phá bom mìn tại Quảng Trị và đang kêu gọi các chiến binh khác, cũng như những người không phải cựu chiến binh, hỗ trợ cho việc khắc phục hậu quả chiến tranh.
“Tôi sẽ tiếp tục quyên góp thêm tiền cho Dự án Renew tại Quảng Trị để giúp đỡ rà phá bom mìn và nạn nhân chất độc da cam. Tôi sẽ khuyến khích các cựu binh khác tham giao vào những việc mà tôi đang làm”.
Trong vài thập niên, Mỹ đã từ chối thừa nhận hậu quả đối với những người Mỹ bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam. Nhưng Andre nói ông đã nhìn thấy sự đổi và hi vọng điều đó sẽ tiếp tục.
Andre nói hiện nay vẫn có một số người nghĩ rằng khó có thể cải thiện quan hệ với Việt Nam nhưng ông khẳng định số đó rất ít.
“Giờ đây có nhiều hoạt động của Mỹ tại Việt Nam, các hoạt động đầu tư, du lịch. Tôi mong trong tương lai sẽ có nhiều hoạt động trao đổi, giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Mỹ”.
Frank Campbell: Chiến tranh không bao giờ là câu trả lời cho bất kỳ vấn đề gì
Cựu chiến binh Frank Campbell
Cựu chiến binh Frank Campell kể rằng khi tham chiến tại Việt Nam, ông là thuyền trưởng trên tàu hải quân Mỹ đóng ở Biển Đông. Vì vậy, ông không tiếp xúc với người dân Việt Nam khi đó và ông cũng chưa bao giờ nghĩ Việt Nam là kẻ thù. Nhưng ký ức chiến tranh trong ông là những hậu quả do bom mìn gây ra, các hố sâu để lại sau các vụ ném bom của máy bay B-52.
“Sau khi trở về nước, tôi đã vận động mọi người từng tham gia cuộc chiến nói lên tiếng nói của mình để phản đối chiến tranh nói chung. Tôi cho rằng chiến tranh không bao giờ là câu trả lời cho bất kỳ vấn đề gì, không có kẻ thắng người thua trong chiến tranh”.
Đây là lần đầu tiên Campbell trở lại Việt nam từ năm 1974. “Tôi rất xúc động và ngạc nhiên trước sự thay đổi của Việt Nam. Sân bay hiện đại, mọi thứ rất hiện đại, rất nhiều hoạt động đang diễn ra ở ngoài kia Đó là những điều mà tôi chưa từng nghĩ đến khi tôi ở đây trong chiến tranh”.
Campbell cũng thừa nhận rằng dù chiến tranh đã qua lâu rồi nhưng hậu quả vẫn còn rất nhiều, như trong vấn đề chất độc da cam. Ông nói không chỉ người Việt Nam mà người Mỹ cũng phải chịu đựng hậu quả của chiến tranh.
Nói về quan hệ 2 nước, Campbell cho biết ông nghĩ mọi việc đang đi đúng hướng và còn nhiều điều để 2 nước có thể thực hiện cùng nhau nhằm thúc đẩy quan hệ, hàn gắn chiến tranh như các chương trình hỗ trợ nạn nhân chất độc da cam, các chương trình trao đổi hơn nữa sinh viên giữa hai nước…
An Bình
Theo Dantri
Truyền hình Mỹ đang nói gì về chiến tranh Việt Nam?
Mới đây, tờ New York Times (Mỹ) đã có bài viết với tiêu đề "Việt Nam là tâm điểm của các chương trình truyền hình tuần cuối tháng 4". Những ngày này, truyền hình Mỹ đưa tin gì về chiến tranh Việt Nam?
Trong bài viết, New York Times đã giới thiệu một số chương trình đáng chú ý sẽ phát sóng trên màn ảnh nhỏ của Mỹ những ngày tới đây. Mỗi khi tháng 4 đến, đặc biệt vào những năm kỷ niệm chẵn như năm nay, báo chí Mỹ luôn dành sự quan tâm lớn cho chiến tranh Việt Nam.
Những chùm ảnh, những bài viết được các tờ báo lớn thực hiện với những góc nhìn chuyên sâu, nhiều chiều. Truyền hình Mỹ đương nhiên cũng "vào cuộc" đưa tin điểm nhấn trong tuần cuối tháng 4. Tuy vậy, một điều chắc chắn là không khí đưa tin trên tất cả các phương tiện truyền thông của Mỹ đều được thực hiện ở mức độ "cầm chừng".
Người Sài Gòn xuống đường trong ngày vui chiến thắng.
Những chương trình bàn luận về chiến tranh Việt Nam đã được thực hiện và chuẩn bị lên sóng. Dù những chương trình này không phát sóng "rầm rộ", nhưng chắc chắn có xuất hiện trên màn ảnh nhỏ của Mỹ để người Mỹ thuộc mọi thế hệ không quên một trang sử "muốn quên" của chính họ.
Dịp này, truyền hình Mỹ phát lại bộ phim tài liệu "Last Days in Vietnam" (Những ngày cuối cùng ở Việt Nam - 2014) của nữ đạo diễn Rory Kennedy. Bộ phim đã được đề cử ở hạng mục Phim tài liệu xuất sắc nhất tại giải Oscar hồi đầu năm nay.
"Last Days in Vietnam" đã ra rạp ở Mỹ hồi năm ngoái. Bộ phim cho thấy lại hình ảnh những cuộc rút quân cuối cùng của lính Mỹ khỏi Sài Gòn trong những ngày cuối tháng 4/1975.
Đoàn Quân Giải phóng khẩn trương tiến về Sài Gòn, hoàn tất công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Lính Mỹ tháo chạy trong hoang mang, lo sợ, và hỗn loạn. Đó cũng chính là hình ảnh Sài Gòn trong những ngày cuối cùng trước khi được hoàn toàn giải phóng, cũng là tinh thần chủ đạo của bộ phim tài liệu.
Những gì còn lại của lính Mỹ, lính Việt Nam Cộng hòa trên một đường phố ở ngoại ô Sài Gòn. (Ảnh: Jacques Pavlovsky/Sygma/Corbis)
Bộ phim sẽ cho thấy lại một cách chi tiết nhất tình trạng hỗn loạn, bát nháo quanh những chuyến bay về nước của lính Mỹ. Cây cối trong sân bãi của Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam khi đó đã phải chặt bớt để máy bay có thể hạ cánh.
Thêm vào đó là một nhiệm vụ cuối cùng dành cho một biệt đội lính thủy đánh bộ của Mỹ, họ đã đốt sạch 1 triệu đô la tiền mặt, hòng gây khó dễ về mặt kinh tế cho Quân Giải phóng khi tiến về giải phóng Sài Gòn.
"Trong những ngày điên cuồng đó, có vô số những quyết định sai lầm đã được đưa ra, sự hỗn loạn hiện hữu khắp nơi" - New York Times bình luận.
Còn New York Daily News thì cho rằng "24 giờ cuối cùng của chiến tranh Việt Nam không kém ngớ ngẩn chút nào so với tất cả những năm trước đó".
Cửa sau Đại sứ quán Mỹ (Sài Gòn) những ngày trước khi Quân Giải phóng tiến về hoàn tất công cuộc thống nhất nước nhà. (Ảnh: Jacques Teyssier)
Trước đó, ngay tại nơi này, Đại sứ quán Mỹ đã tổ chức những buổi tiệc lớn ngoài trời. (Ảnh: Jacques Teyssier)
Đạo diễn của phim - cô Rory Kennedy là con gái út của thượng nghị sĩ Robert Kennedy - em trai của Tổng thống Mỹ John Kennedy. Rory ra đời 6 tháng sau khi bác ruột bị ám sát.
Nói về "Last Days in Vietnam", Rory cho rằng: "Chiến tranh Việt Nam đã khép lại cách đây 40 năm, nhiều trường học ở Mỹ đã không còn dạy về cuộc chiến này nữa, nhưng chúng ta - những người Mỹ - cần phải nhớ về cuộc chiến này, bởi chúng ta cần phải học được những bài học từ đó... Tôi có thể nói rằng cách tốt nhất để tránh khỏi tình huống (như đã thấy trong phim) chính là đừng gây ra chiến tranh ngay từ đầu".
Những chuyến bay cuối cùng chở người Mỹ về nước trong những ngày cuối tháng 4/1975. (Ảnh: Dirck Halstead/Liaison)
Những chuyến bay đưa người Mỹ khẩn trương rời khỏi Việt Nam. (Ảnh: Dirck Halstead/Getty Images)
Đài PBS - đơn vị sản xuất chương trình truyền hình cấp quốc gia được tín nhiệm hàng đầu ở Mỹ, dịp này cũng đã thực hiện một số chương trình, dù không đi sâu vào cuộc chiến, nhưng cũng đủ khiến người Mỹ nhớ về một câu chuyện lịch sử ê chề.
Dịp này, PBS đã sản xuất chương trình "Kent State: The Day the &'60s Died" (Đại học Kent State: Cái chết của thập niên 1960), tưởng nhớ về 4 sinh viên ở trường Đại học Kent State, bang Ohio, đã bị giết hại trong khi tham gia biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam hồi tháng 5/1970.
Khi Tổng thống Richard Nixon quyết định mở rộng cuộc chiến, ngay lập tức những cuộc biểu tình phản đối đã nổ ra. Tại Đại học Kent State, biểu tình đã trở thành bạo lực, cảnh sát được gọi tới, và vào ngày 4/5, cảnh sát đã nổ súng.
Người dân Sài Gòn xuống phố chào đón Quân Giải phóng. (Ảnh: Jacques Pavlovsky/Sygma/Corbis)
Ngoài ra, PBS còn sản xuất "Dick Cavett's Vietnam" (Việt Nam qua góc nhìn Dick Cavett) và "The Draft" (Chế độ quân dịch).
"The Draft" khai thác một thực trạng trong chế độ quân dịch đã diễn ra trong lịch sử Mỹ từ thời Nội chiến và vẫn còn tiếp tục diễn ra trong thời kỳ đầu của chiến tranh Việt Nam, phản ánh sự bất công trong xã hội Mỹ một thuở, khi người giàu có thể trả tiền để thuê người khác thay mình ra chiến trường.
"Dick Cavett's Vietnam" với nội dung xoay quanh những clip được trích ra từ một chương trình talk show trên truyền hình, bàn về chiến tranh Việt Nam, do người dẫn chương trình Dick Cavett dẫn hồi tháng 6/1971.
Ở thời điểm này, những chính trị gia nổi tiếng của Mỹ vẫn còn rất "mạnh miệng" bàn luận công khai về chiến tranh Việt Nam trên sóng truyền hình. Những tranh luận đã thể hiện hai phe, hai tư tưởng, hai đường lối - chủ chiến và phản chiến. Những tranh cãi nảy lửa trên sóng truyền hình khi đó đã thu hút cả Tổng thống Mỹ và dư luận Mỹ.
Trước cuộc tranh luận công khai bộc lộ rõ sự đuối lý của phe chủ chiến, Tổng thống Mỹ Nixon trong một cuộc điện thoại với Tham mưu trưởng Nhà Trắng lúc bấy giờ đã phải thốt lên rằng: "Có cách nào để chúng ta có thể bắt vít tay Cavett này lại không? Tôi muốn như thế. Phải có cách nào đó chứ".
Người dân phấn khích xuống đường hòa vào cùng đoàn quân Giải phóng. (Ảnh: Jean-Claude Labbe/Gamma-Rapho)
Trên đây là một số chương trình điểm nhấn của truyền hình Mỹ trong những ngày này, ngoài ra còn có những bản tin, những chương trình bình luận khác...
Kết lại, xin mượn lời của nữ đạo diễn Rory Kennedy, rằng chiến tranh Việt Nam đã khép lại cách đây 40 năm, nhưng tất cả nhân loại vẫn cần phải nhớ về cuộc chiến này, bởi chúng ta cần phải học được những bài học từ đó, rằng cách tốt nhất để tránh khỏi sa lầy vì chiến tranh chính là đừng gây ra chiến tranh ngay từ đầu.
Bích Ngọc
Theo Dantri/ New York Times
Cựu binh Mỹ tìm thấy bình yên tại Việt Nam sau 40 năm Trở lại Việt Nam sau nhiều năm, tôi đã không thể nhận ra đất nước với những thay đổi lớn lao tại đất nước này... Mọi người chào đón chúng tôi với vòng tay rộng mở và những nụ cười ấm áp, dù tôi và họ từng ở bên kia chiến tuyến...". Cựu chiến binh Andonios Neroulias chụp ảnh khi ông trở lại...