Nhớ về một người thầy của mái trường Ngoại giao
Thầy Thanh đã đi xa, nhưng mỗi thành viên lớp Phiên dịch 2, Đại học Ngoại giao vẫn nhớ tới người thầy giản dị, thương yêu học sinh hết mực.
Thầy Vũ Văn Thanh, thầy giáo dạy tiếng Pháp của Phân lớp Pháp, lớp Phiên dịch 2, Đại học Ngoại giao.
Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam và cũng là dịp Học viện Ngoại giao, mà tiền thân là Trường Đại học Ngoại giao vừa long trọng tổ chức kỷ niệm 60 năm thành lập, tôi không thể không nhớ đến các thầy cô đã dạy dỗ chúng tôi (lớp Phiên dịch 2) trong suốt 5 năm. Một trong số các thầy, cô đó là thầy Vũ Văn Thanh, thầy giáo dạy tiếng Pháp cho lớp chúng tôi.
Thầy Thanh bắt đầu dạy tiếng Pháp cho lớp Phiên dịch 2 từ năm thứ 2, sau khi thầy kết thúc nhiệm vụ phiên dịch cho phái đoàn Việt Nam đàm phán tại Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam. Thầy dạy chúng tôi các môn nghe, đọc hiểu, dịch xuôi và dịch ngược. Từ cuối năm học thứ ba, chúng tôi được thầy dẫn đi thăm Viện Bảo tàng cách mạng, Viện Bảo tàng Quân đội và cả Viện Bảo tàng Lịch sử, một số danh thắng. Thầy liên hệ với các Viện bảo tàng, đặt lịch để các hướng dẫn viên thuyết minh, giới thiệu về các sự tích, hình ảnh trưng bày tại đó. Mỗi thành viên chúng tôi được thầy chỉ định để dịch lời thuyết minh ra tiếng Pháp.
Trong các buổi thực tập như thế này, thầy thường mời cô giáo người Pháp, cô Marie Locket đi cùng để đánh giá, nhận xét về khả năng phiên dịch và diễn đạt của chúng tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi bị tắc, do thiếu từ ngữ diễn đạt hoặc không nhớ được nội dung thuyết minh. Thầy hướng dẫn tỉ mỉ cách ghi nhớ nội dung và cách thức diễn đạt ngắn gọn, mạch lạc. Đây là những bài thực hành rất sinh động và bổ ích.
Những buổi tối mùa hè, thỉnh thoảng thầy dẫn chúng tôi ra sân ngắm sao. Thầy chỉ cho chúng tôi biết tên những chòm sao trên trời cao, đâu là sao Bắc đẩu, dải Ngân hà, rồi chòm Gấu lớn, Gấu nhỏ… Vì thầy ở trong khu nhà tập thể của trường dành cho cán bộ nhân viên, chúng tôi ở nội trú trong trường và tối đến lại tới các phòng học để tự học hoặc học nhóm nên thầy trò gặp nhau như vậy là thường tình.
Thầy Thanh cùng các thầy cô giáo và sinh viên lớp Phiên dịch 2, Đại học Ngoại giao thăm chùa Thầy năm 1974.
Video đang HOT
Thầy Thanh rất giản dị, gần gũi và thân tình với học sinh. Thầy mới đi nước ngoài về, thầy vẫn đi cái xe đạp cũ. Xe cũ nhưng rất chắc chắn. Vào năm học thứ 4, tôi mời thầy về nhà tôi chơi, nhà cách Trường Đại học Ngoại giao chừng 13 km. Tôi không có xe đạp, xe máy mà đi ô khách thì cũng không thuận tiện. Thầy đưa xe đạp để tôi đèo thầy. Dọc đường đi, thầy nói nhỏ nhẹ là tai nạn giao thông thường hay xảy ra với những người đèo nhau lắm. Tôi hiểu là thầy lo lắng và nhắc khéo tôi đi cẩn thận.
Những năm cuối đời, thầy bị lẫn và mất trí nhớ. Nhưng mỗi khi tôi tới thăm thầy, vừa nhìn thấy tôi là thầy đã gọi đúng tên tôi và bảo tôi vào chơi. Tôi cũng ngạc nhiên và rất mừng là thầy vẫn nhận ra mình và nhớ mình.
Một số thành viên Phân lớp Pháp, Phiên dịch 2, sau khi đi học đạt thành tích tốt tại Trường Đại học Sorbonne của nước Pháp về nước, được thầy Thanh động viên về Trường Đại học Ngoại giao làm giáo viên. Thế là một số chúng tôi được trở thành đồng nghiệp của thầy. Từ đó, thầy Thanh lại ân cần động viên, giúp đỡ để chúng tôi trở thành những giáo viên tốt. Thầy cũng đã được chứng kiến sự phát triển và thành công của chúng tôi, những học trò và sau là đồng nghiệp của thầy.
Thầy Thanh đã đi xa, nhưng mỗi thành viên lớp Phiên dịch 2 chúng tôi vẫn nhớ tới người thầy giản dị, thương yêu học sinh hết mực. Nhất là vào dịp Ngày Nhà giáo Việt Nam năm nay, khi Lớp Phiên dịch 2 chúng tôi cũng vừa tròn 50 năm nhập trường và 45 năm ngày tốt nghiệp đại học, chúng tôi lại càng nhớ và biết ơn thầy.
Theo baoquocte
Tự hào Phiên dịch 2 Đại học Ngoại giao
Tuy không thể so sánh được với điều kiện học tập, nghiên cứu như hiện nay, song chắc chắn những kiến thức mà lớp Phiên dịch 2 Đại học Ngoại giao thu hoạch được khi đó là vô cùng quý giá, đủ làm nền tảng để giúp mỗi người hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình sau này...
Phân lớp tiếng Pháp của Lớp Phiên dịch 2 Đại học Ngoại giao năm 1970.
Nhân dịp Học viện Ngoại giao, tiền thân là Trường Đại học Ngoại giao long trọng tổ chức kỷ niệm 60 năm ngày thành lập, lớp Phiên dịch 2 (PD2) Đại học Ngoại giao không thể quên những chặng đường 50 năm của riêng mình. Lớp Phiên dịch 2 của Trường Đại học Ngoại giao được mở vào năm 1969, sau khi trường đã có lớp Phiên dịch 1 từ bốn năm trước. Khi các trường cấp 3 của miền Bắc (Việt Nam) sắp kết thúc năm học, một số cán bộ, giáo viên nhà trường đã về các tỉnh trực tiếp gặp các học sinh, xem xét học lực, hình thức và lý lịch để lựa chọn. Trên 40 học sinh đã được tuyển vào lớp PD2, chia thành 2 phân lớp: phân lớp tiếng Anh và phân lớp tiếng Pháp.
Trường khi đó đang đóng ở nơi sơ tán: xã Tiên Phong, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên (Bắc Thái). Xã có 3 thôn: Yên Trung, Cổ Pháp và Xuân Trù. Chúng tôi được gọi tập trung đến Yên Trung ngày 15/8/1969. Đa số anh em đi tàu vào ban đêm, sáng sớm hôm sau đến ga Phổ Yên, túi xách hoặc ba lô trên vai, đi bộ khoảng 9 km thì đến trường. Nơi đây là vùng trung du, đã được dựng lên những ngôi nhà tranh, bao quanh bằng các bức tường đất dày để tránh mảnh bom Mỹ. PD 2 được thế chỗ, cả lớp học và chỗ ở, trong nhà dân của các anh, chị lớp Phiên dịch 1, đã bắt đầu vào năm học thứ 5, nên được chuyển về trường chính tại Hà Nội để việc học và thực tập được thuận lợi. Vả lại, máy bay Mỹ đã tạm ngừng ném bom miền Bắc, nhờ có cuộc đàm phán Việt-Mỹ đang diễn ra tại Paris từ 1 năm trước đó.
Những ngày đầu, anh em trong lớp có phần hoang mang, thiếu phấn khởi vì được gọi là Khóa Phiên dịch 2. Cứ nghĩ mình được đào tạo để trở thành "thông ngôn" nên bị dao động và không yên tâm học tập. Thời đó, "nhất Y, nhì Dược, tạm được Bách khoa" đang ngự trị trong ước mơ của tuổi trẻ. Một vài bạn bỏ về đi xin học ở trường khác, mặc dù nhà trường đã họp, làm công tác tư tưởng, động viên.
Ở Yên Trung, các lớp học và nhà ăn là những lán nhà tranh nằm rải rác trong thôn. Lớp có hai cấp dưỡng là vợ chồng anh Gợi, chị Kim nấu ăn hàng ngày. Anh chị nấu ăn giỏi, nhiệt tình, tận tâm và rất thương yêu anh em sinh viên. Có thời gian, nhà trường chỉ được cung cấp toàn bột mỳ, nên thứ bánh bao (không có bột nở) đã trở thành các bữa "cơm" sinh viên. Mỗi suất ăn thường có 1 bát canh rau nấu với lạc giã nhỏ và một chiếc bánh bao cỡ gần bằng chiếc bát ăn cơm. Ở tuổi 17, 18, chúng tôi không thể đủ no với những khẩu phần như vậy. Thành thử, tối tối (có khi cả trong đêm khuya), anh em thường mò đến những quán nhỏ trong làng mua khoai, sắn chống đói. Các bạn có điều kiện hơn thì mua bánh chưng. Hàng tuần, chúng tôi phân công nhau đi xe than, chở gạo, mì từ "thủ phủ" của trường về nhà ăn vì ô tô không có đường vào làng.
Sau khoảng nửa năm, lớp được trở về trường chính, gần Chùa Láng. Trường khi đó chỉ có mấy ngôi nhà gạch, mái ngói dành cho sinh viên ở, còn lại hội trường, nhà ăn, lớp học là nhà tranh vách nứa. Cả lớp đều phải ở nội trú, mặc dù nhiều bạn có gia đình ở ngay tại Hà Nội. Lớp học được rèn luyện theo nếp sinh hoạt của quân đội: sáng, 5h kẻng thể dục; 7h đến 11h30 lên lớp; chiều, 1h30 đến 4h30 lên lớp hoặc tự học; tối, 7h đến 10h, tự học.
Những ngày trong tuần (thứ 2 đến thứ 7), sinh viên chỉ được ra khỏi trường từ 17h đến 19h, trưa muốn ra ngoài phải có giấy phép của phòng giáo vụ. Chủ nhật được tự do từ 17h thứ 7 đến 19h hôm sau.
Về Hà Nội, khẩu phần ăn vẫn thế, không được cải thiện gì thêm. Cơm độn ngô vẫn không đủ no. Thức ăn mỗi bữa vẫn là canh rau loãng với: hoặc đậu phụ rán, hoặc vài ba miếng thịt lợn thái mỏng, hoặc 1 ít lạc chiên muối.
Cùng học với nhau đến hết năm thứ 2 và năm thứ ba thì lớp có nhiều biến động. Năm 1972, một số anh em được gọi nhập ngũ, chuẩn bị cho các chiến dịch lớn sau này. Một số khác đi học ngoại ngữ ở Pháp, Ấn Độ, Thụy Điển. Cái đó gây nên những âu tư, cảm xúc lẫn lộn...
Giữa năm 1972, miền Bắc có nguy cơ bị Mỹ ném bom trở lại. Trường lại phải sơ tán một lần nữa. Đầu tiên, PD2 về ở thôn Hoàng Dương, xã Sơn Công, huyện Ứng Hòa, Hà Tây; sau chuyển sang thôn Nghi Lộc cùng xã. Lần này, sinh viên cũng ở nhờ nhà dân, và mượn nhà dân làm lớp học. Trường không làm lán trại như hồi ở Thái Nguyên, do dự báo chiến tranh sẽ không còn kéo dài và sĩ số của lớp cũng đã giảm nhiều. Vốn đã quen với sơ tán, nên việc thích nghi với cuộc sống cũng nhanh chóng.
Vào thời điểm 12 ngày đêm Hà Nội tháng 12/1972, chúng tôi từ nơi sơ tán, lo lắng và lòng căm thù dâng trào khi thấy những chớp lửa và cột khói bom Mỹ trên bầu trời thủ đô. Mỹ đã thất bại sau 12 ngày đêm bởi trận "Điện Biên Phủ trên không". Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết vào ngày 27/1/1973 tại Paris.
PD2 lại trở về Hà Nội để học hơn một năm nữa. Cuộc sống sinh viên nội trú lại bắt đầu trở lại. Trong hoàn cảnh chiến tranh, PD2 đã trải qua những thiếu thốn không thể nào quên về cơ sở vật chất, sinh hoạt cũng như về tài liệu phục vụ cho học tập như từ điển, giáo trình, sách tham khảo... Bù lại, anh em nhận được sự quan tâm, giúp đỡ đầy nhiệt huyết của các thầy cô giáo, các cán bộ nhân viên nhà trường. Chúng tôi cùng nhau thi đua, giúp đỡ nhau tận tình để học thật tốt, cố gắng để có kiến thức, trình độ đáp ứng công việc đang chờ đón khi đất nước hòa bình.
Tuy không thể so sánh được với điều kiện học tập, nghiên cứu như hiện nay, song chắc chắn những kiến thức mà PD2 thu hoạch được khi đó là vô cùng quý giá, đủ làm nền tảng để giúp mỗi người hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình khi ra công tác và tiếp tục học nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong những giai đoạn về sau.
Rời ghế đại học năm 1974, với những kiến thức được trang bị trong suốt khoá học để trở thành những cán bộ đối ngoại, các thành viên PD2 khao khát đóng góp cho sự nghiệp của đất nước nhưng cũng ý thức được rằng phải tiếp tục rèn luyện và học tập không ngừng, đặng đáp ứng được yêu cầu công việc.
Các thành viên lớp Phiên dịch 2 Đại học Ngoại giao trong một cuộc họp lớp năm 2015.
Trong suốt 50 năm qua, các thành viên PD2 làm việc tại nhiều cơ quan, đơn vị khác nhau (đại đa số tại Bộ Ngoại giao), vẫn gắn kết với nhau bằng cái tên chung "Phiên dịch 2" Đại học Ngoại giao. Nhiều sinh viên của PD2 đã trở thành thành viên Lãnh đạo Bộ Ngoại giao, Giám đốc Học viện, vụ trưởng, vụ phó, đại sứ, trưởng, phó các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và các cán bộ chủ chốt của nhiều đơn vị. Nhiều thành viên PD2 đã được Đảng, Nhà nước tặng những phần thưởng cao quý như Huân chương Độc lập, Huân chương Lao động, Bằng khen, Giấy khen của Thủ tướng Chính phủ, của Bộ trưởng Ngoại giao và nhiều Bộ, ngành và các địa phương.
Sau 50 năm phấn đấu và trưởng thành, các sinh viên PD2 giờ đây đều sắp trở thành những "người xưa nay hiếm", song tình bạn, tình người giữa họ vẫn sẽ tiếp tục gắn bó trong suốt chặng đường còn lại.
Theo baoquocte
Chúng tôi đã đi qua những năm tháng gian nan như thế Sự hy sinh của thầy cô không còn như trước, những hành xử thiếu văn minh của một vài giáo viên, của phụ huynh đã làm cho bức tranh gia đình nhà trường xấu dần Gần 30 năm trong nghề dạy học, nhìn lại cả chặng đường đã qua nhiều lúc chợt giật mình: "Chúng tôi đã đi qua những năm tháng gian...