Nhìn đúng về kiểm định chất lượng
Kiểm định chất lượng (KĐCL) là hoạt động đánh giá toàn diện các mặt của một chương trình đạo tạo (nếu KĐCL chương trình) hoặc các mặt hoạt động của trường đại học (nếu KĐCL cơ sở giáo dục). Đây là công cụ quan trọng để bảo đảm chất lượng giáo dục, trong đó có giáo dục ĐH.
Kiểm định chất lượng phải có tính độc lập để đảm bảo tính khách quan trong đào tạo
Những năm qua, công tác quản lý, cải tiến chất lượng giáo dục được đặc biệt chú ý. Các tổ chức chuyên trách về đánh giá, KĐCL được thành lập. Ngoài Cục Khảo thí và KĐCL được thành lập năm 2008, Phòng Khảo thí và KĐCL đã được thành lập tại Sở GD&ĐT; đơn vị chuyên trách về đảm bảo chất lượng được thành lập ở các trường ĐH, CĐ trên cả nước.
Từ năm 2007 công tác đánh giá chất lượng tại các cơ sở giáo dục ĐH trên toàn quốc đã được khởi động dựa trên bộ tiêu chuẩn chính thức gồm 10 tiêu chuẩn và 61 tiêu chí. Từ tháng 7/2017, công tác KĐCL được thực hiện theo Thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT. Các văn bản này đều được công khai và có trên mạng, chỉ bằng một click chuột, bất cứ ai quan tâm muốn tìm hiểu đều có thể đọc, nghiên cứu.
Có thể còn ý kiến khác nhau về cách xác định tiêu chuẩn, nhưng từ nội dung của Thông tư 12/2017/TT-BGDĐT có thể khẳng định rằng các tiêu chuẩn đánh giá này bao quát toàn diện mọi hoạt động của trường ĐH: Từ sứ mạng, tầm nhìn, văn hóa, cơ cấu quản trị, chính sách các mặt của trường, quản lý các nguồn lực (con người, cơ sở vật chất và tài chính); đến các hoạt động đảm bảo chất lượng bên trong; việc thực hiện các chức năng của trường ĐH như đào tạo, người học, nghiên cứu, đóng góp phát triển cộng đồng; các kết quả hoạt động về đào tạo, NCKH, phát triển cộng đồng; thậm chí cả kết quả về tài chính, vị trí trong hệ thống giáo dục ĐH.
Tuy nhiên, vẫn có ý kiến nhìn nhận về hoạt động kiểm định ĐH vừa qua là “áp dụng kiểm định chỉ định”, hoặc “chỉ kiểm định cơ sở vật chất mà không kiểm định giáo viên; trong khi người dạy, người học mới là yếu tố chính quyết định chất lượng đào tạo”.
Bày tỏ sự ngạc nhiên về điều này, GS.TS Nguyễn Quý Thanh – Hiệu trưởng Trường ĐH Giáo dục (ĐHQG Hà Nội) – một trong những người nghiên cứu và thực hành về kiểm định tại Việt Nam – cho rằng, dường như người có cách hiểu như trên nhầm giữa “KĐCL giáo dục” với việc “thẩm định các điều kiện đảm bảo chất lượng” – thực chất là xác minh xem số lượng giảng viên và cơ sở vật chất có đúng như trường đã nêu trong đề án tuyển sinh, một hoạt động mà năm ngoái Bộ GD&ĐT có ủy quyền các Trung tâm KĐCL thực hiện.
Đây thực ra là 2 việc khác nhau, phục vụ các mục đích khác nhau, cách thực hiện khác nhau. Các trung tâm KĐCL giáo dục chỉ thực hiện việc thẩm định “điều kiện đảm bảo chất lượng” một lần năm 2017 và phục vụ cho việc tuyển sinh ĐH năm đó, nhưng không liên quan gì đến hoạt động KĐCL giáo dục của trường.
Đến nay, Bộ GD&ĐT đã cấp phép hoạt động cho 5 trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục. Các trường ĐH của Việt Nam được toàn quyền quyết định lựa chọn đơn vị kiểm định hợp pháp, kể cả đăng ký kiểm định với các tổ chức đánh giá, KĐCL giáo dục của nước ngoài, để KĐCL.
Điều này có nghĩa, không có chuyện chỉ định trường phải làm kiểm định ở trung tâm hay bất kì tổ chức nào. Chưa kể, khi đánh giá, các đoàn đánh giá phải nghiên cứu minh chứng, phỏng vấn tất cả các nhóm liên quan, khảo sát, tham quan thực địa, kiểm tra ngẫu nhiên các mặt hoạt động của trường. Tức là, các quá trình đánh giá, kết quả đánh giá dựa trên minh chứng, được kiểm tra chéo lẫn nhau để đảm bảo thông tin xác thực.
Thêm nữa, có một điểm nhiều người chưa biết là các trường ĐH thành viên của các ĐH có trung tâm KĐCL giáo dục không được đăng ký kiểm định tại trung tâm của ĐH đó. Ví dụ, các trường thành viên của ĐHQG Hà Nội không được đăng ký KĐCL tại Trung tâm KĐCL giáo dục – ĐHQG Hà Nội mà phải đăng ký kiểm định của một tổ chức bên ngoài. Việc này để đảm bảo tính khách quan, độc lập.
Video đang HOT
Việc cần làm trong thời gian tới, theo nhiều chuyên gia, là đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Quỹ kiểm định độc lập, tăng cường các chế tài gắn với kiểm định, thí dụ, gắn mức độ trao quyền tự chủ với kết quả kiểm định; đổi mới chương trình đào tạo đội ngũ kiểm định viên; đào tạo đủ số lượng, cơ cấu và chất lượng các kiểm định viên để triển khai các hoạt động kiểm định cấp độ chương trình. Trong tương lai, cần đẩy mạnh áp dụng một số phương thức quản lý chất lượng giáo dục tiên tiến trên thế giới như mô hình PDCA (Plan-Do-Check-Act), hướng tới nâng cao chứ không chỉ là “đảm bảo” chất lượng.
Tâm An
Theo giaoducthoidai
Kiểm định chất lượng phải có tính độc lập để đảm bảo tính khách quan trong đào tạo
Đại học "lộ" hàng loạt yếu kém nhưng vẫn đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục?
Trong giai đoạn từ tháng 1-2016 đến ngày 31/5/2018, 4 Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục Việt Nam đã đánh giá ngoài 122 trường đại học thì có 117 trường đại học/học viện đã được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục, chỉ có 5 trường đại học/học viện là chưa được công nhận.
Chất lượng nhiều trường đại học có vấn đề
Con số đáng lo ngại
Theo thống kê của GS. Bành Tiến Long (nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT), trong 117 trường đại học/học viện có 100 trường đại học công lập, 17 trường đại học ngoài công lập. Trong đó, 6,8% là trường trực thuộc UBND các tỉnh quản lý và 77,8 là trường/học viện trực thuộc các Bộ chủ quản và các ĐH Quốc gia, Đại học vùng.
Kết quả Kiểm định chất lượng giáo dục công khai trên cổng thông tin điện tử của 4 Trung tâm cho thấy, trong 10 tiêu chuẩn với 61 tiêu chí đánh giá chất lượng thì rất ít trường đạt. Cụ thể:
Tổng số 61 tiêu chí, có 9 tiêu chí 100% các cơ sở GD ĐH đều đạt là: Xác định sứ mạng của trường đại học; các hoạt động của tổ chức Đảng và các tổ chức đoàn thể; đảm bảo các quyền dân chủ trong trường đại học cho cán bộ, giảng viên; một số tiêu chí về chăm sóc sinh viên; các hoạt động hợp tác quốc tế được thực hiện theo quy định của Nhà nước. Với 52 tiêu chí còn lại, mỗi tiêu chí có ít nhất một cơ sở GD ĐH "chưa đạt".
Đặc biệt, chỉ có 1 trường đại học có số lượng tiêu chí "Đạt" cao nhất là 56/61 tiêu chí "Đạt yêu cầu" và số lượng tiêu chí "Chưa đạt" ít nhất (5/61 tiêu chí "Chưa đạt yêu cầu"); không có trường nào không đạt từ 4 tiêu chí trở xuống.
GS Bành Tiến Long cho rằng, điều này càng dễ hiểu vì sao Việt Nam chưa có trường nào được xếp hạng trong 500 trường hàng đầu thế giới theo bảng xếp hạng THES - World University Rankings, hay CWUR World University Rankings.
Cũng theo GS Long 25 trường/học viện (chiếm tỷ lệ 21,36%) có 49 tiêu chí "Đạt" và 12 tiêu chí "Chưa đạt" (12 tiêu chí "Chưa đạt" trong tổng số 61 tiêu chí là con số tối đa để một trường/học viện được công nhận đạt Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục).
Đây là những trường cần phải thực hiện ngay và quyết liệt hơn trong công tác đảm bảo và cải tiến nâng cao CLGD. Còn lại mỗi tiêu chí có ít nhất một cơ sở GD ĐH "chưa đạt".
Còn lại có tới 98 trường có số lượng 9 tiêu chí chưa đạt trở lên, chiếm 83,76% tổng số trường. Đây là con số đáng lo ngại, phản ánh đúng nội dung yếu kém của giáo dục đại học Việt Nam.
Đáng lưu ý rằng, phần lớn các trường được kiểm định là những trường được coi là xếp hạng khá trở lên trong hệ thống GD VN.
55% trường đại học được đánh giá chưa đáp ứng đủ số lượng giảng viên để thực hiện CTĐT và nghiên cứu khoa học.
Báo động về chất lượng
GS Bành Tiến Long cho rằng, việc kiểm định chất lượng giáo dục đã tạo bước chuyển biến tích cực và thay đổi mạnh mẽ đối với các trường đại học. Nhiều đại học đã có những cam kết mạnh và thực hiện cải thiện cải thiện sau đánh giá. Tuy nhiên, kết quả 117 cơ sở giáo dục đã được kiểm định chất lượng và công khai kết quả thẩm định cho thấy các trường đại học còn tồn tại nhiều vấn đề đáng "báo động" về chất lượng.
Về quản trị ĐH và tổ chức quản lý trường ĐH thì có 36% trường đại học được đánh giá chưa có cơ cấp tổ chức đáp ứng các quy định của Điều lệ trường ĐH và các quy định khác của pháp luật có liên quan như chưa thành lập Hội đồng trường, Hội đồng khoa và một số tiêu chuẩn khác đúng quy định, một số trường chưa cập nhật và xây dựng QC về TC&HĐ theo đúng quy định hiện hành....
Có tới 34% chưa đáp ứng được các yêu cầu về CL - KHPT và biện pháp giám sát, đánh giá và thực hiện các kế hoạch, chất lượng.
Về chương trình đào tạo, có 15,4% trường đại học được đánh giá chưa thiết kế theo quy định đối với các CTĐT thường xuyên, chưa đảm bảo chất lượng đào tạo đối với CTĐT này.
Có 65% trường chưa thực hiện việc định kỳ đánh giá CTĐT và thực hiện cải tiến chất lượng dựa trên kết quả đánh giá; Có 24% cơ sở giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu về việc định kỳ bổ sung, điều chỉnh trên cơ sở tham khải các CTTT-QT, các ý kiến phản hồi từ nhà tuyển dụng, lao động, người tốt nghiệp, các tổ chức GD....đặc biệt, có tới 43% CS GD được đánh giá chưa đáp ứng yêu cầu CTĐT có mục tiêu rõ ràng, cụ thể, cấu trúc hợp lý, được thiết kế một cách có hệ thống, đáp ứng yêu cầu về chuẩn kiến thức, kỹ năng đào tạo trình độ đại học và đáp ứng linh hoạt nhu cầu nhân lực của thị trường lao động.
Về hoạt động đào tạo, khi triển khai hoạt động đào tạo, phương pháp và quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của người học chưa thực sự được các trường đại học chú trọng, có 44% trường đại học chưa đáp ứng các yêu cầu của tiêu chí này. Việc lấy ý kiến của người học, nhà sử dụng lao động và các bên liên quan để làm căn cứ điều chỉnh CTĐT cũng chưa thực sự được các nhà trường chú trọng, có đến 33% trường đại học chưa đáp ứng được các yêu cầu của tiêu chí này.
Về đội ngũ giảng viên, một con số đáng báo động mà khảo sát của GS Bành Tiến Long đưa ra, cụ thể: 55% trường đại học được đánh giá chưa đáp ứng đủ số lượng giảng viên để thực hiện CTĐT và nghiên cứu khoa học; tỷ lệ trung bình SV/GV của một ngành đào tạo quá cao (có chương trình đào tạo khoảng 60 SV/GV).
Có 26% trường được đánh giá có đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên chưa đảm bảo cân bằng về kinh nghiệm công tác chuyên môn và trẻ hóa theo quy định. Đặc biệt, có 43% trường được đánh giá có đội ngũ giảng viên chưa đảm bảo trình độ chuẩn được đào tạo của nhà giáo theo quy định, một số giảng viên chưa giảng dạy theo chuyên môn được đào tạo... Đồng thời, có đến 35% CSGD chưa đáp ứng yêu cầu về đội ngũ quản lý có phẩm chất đạo đức, năng lực quản lý chuyên môn, nghiệp vụ và hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Trong khảo sát của GS Long thì vấn đề nghiên cứu khoa học là điểm tồn tại lớn nhất của các trường ĐH. Các trường có nhiều đề tài, dự án chưa được thực hiện và nghiệm thu theo kế hoạch (có 49% trường đại học chưa đáp ứng yêu cầu của tiêu chí này), thậm chí có tới 78% cơ sở giáo dục chưa đáp ứng tiêu chí yêu cầu về chuyển giao KHCN.
Một số vấn đề tồn tại liên quan nữa là Thư viện và diện tích sử dụng đất của trường đại học. Có 66% trường đại học được đánh giá chưa đáp ứng yêu cầu của tiêu chí thư viện của trường ĐH (chưa có đầy đủ sách, giáo trình, tài liệu tham khảo...); có 55% trường đại học chưa có đủ diện tích đất sử dụng theo quy định...
Bên cạnh hàng loạt vấn đề tồn tại nêu trên, từ kết quả Kiểm định chất lượng giáo dục cho thấy có 9/61 tiêu chí mà 100% các trường đã đạt được KĐCLGD đều đạt yêu cầu. Nội hàm các tiêu chí này liên quan đến các vấn đề sức mạnh của cơ sở giáo dục đại học như hoạt động của các tổ chức đảng, đoàn thể, dân chủ trong CSGD, các hoạt động về đạo đức lối sống cho người học, việc cung cấp các thiết bị tin học về cơ bản các CSGD đều đáp ứng đủ.
***
Kiểm định chất lượng giáo dục đại học Việt Nam, tăng quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học và đổi mới quản trị đã được khẳng định trong Nghị quyết 29-NQ/TW năm 2013 về "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo" và Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020...
Sau gần 13 năm thực hiện Nghị quyết và 5 năm thực hiện Nghị quyết 29, giáo dục đại học VN tuy có chuyển biến tích cực về nâng cao chất lượng và tính tự chủ . Tuy nhiên, những con số trên qua khảo sát, đánh giá của GS Bành Tiến Long cho thấy, hoạt động giáo dục đại học còn nhiều bất cập, đặc biệt là vấn đề đổi mới Quản trị đại học.
Như vậy, kết quả kiểm định chất lượng giáo dục đại học là có vấn đề, mặc dù thiếu nhiều tiêu chí quan trọng nhưng các trường tham gia kiểm định là đạt chất lượng.
Hồng Hạnh
Theo Dân trí
1.482 tỷ đồng để học sinh TP.HCM uống sữa trong 2 năm TP.HCM dự kiến kinh phí cho chương trình sữa học đường là 1.482 tỷ đồng trong 2 năm. Trong đó, ngân sách thành phố hỗ trợ 30%, doanh nghiệp cung cấp sữa hỗ trợ 20%, còn lại phụ huynh học sinh phải đóng góp 50%. Mới đây, văn phòng UBND TP.HCM đã thông báo kết luận của Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Thành...