Nhiều rào cản các nhóm nghiên cứu ở đại học Việt Nam phát triển
Việt Nam chưa có những cơ chế chính sách mạnh để hỗ trợ và thúc đẩy sự hình thành và phát triển các nhóm nghiên cứu (NNC) trong các trường đại học. Nếu có sự hỗ trợ cũng là mức kinh phí rất nhỏ.
Ngày 05/1/2019, trường Đại học Công nghệ, ĐHQGHN đã tổ chức Hội thảo quốc gia về: “Xây dựng và Phát triển các nhóm nghiên cứu trong các trường đại học Việt Nam”. Thứ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo Nguyễn Văn Phúc dự và chỉ đạo Hội thảo.
Các đại biểu tham dự hội thảo
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức, Trưởng Ban Tổ chức, Trưởng Ban Khoa học của Hội thảo cho biết, các nhóm nghiên cứu (NCC) chính là các tế bào sống của hoạt động khoa học và thậm chí của cả hoạt động đào tạo trong các trường đại học. Vì chỉ có xây dựng được các nhóm nghiên cứu mạnh, mới triển khai được các hoạt động nghiên cứu mạnh, đủ sức giải quyết những vấn đề khoa học đỉnh cao của ngành và những nhiệm vụ KHCN quan trọng của đất nước. Mặt khác đào tạo và phát triển đội ngũ cũng được thông qua hoạt động của chính các nhóm nghiên cứu, nhất là đào tạo nghiên cứu sinh.
Hơn nữa khi nhóm nghiên cứu đã đủ mạnh về nhân lực, CSVC và các nguồn lực khác, lại có thể xây dựng các chương trình đào tạo mới. Thông qua sự phát triển của các nhóm nghiên cứu cũng sẽ tăng các công bố quốc tế, từ đó sẽ nâng được thứ bậc và xếp hạng của trường đại học. NNC vừa là phương thức, vừa là mục tiêu phát triển của các trường đại học tiên tiến.
Hiện nay các cơ quan quản lý cấp Bộ, Ngành, cũng như một số đại học, trường đại học định hướng nghiên cứu đã quan tâm và có những chính sách đầu tư cho NNC, nhưng trên thực tế tình hình triển khai các chính sách hỗ trợ này còn chậm.
Điều đó đặt ra mục tiêu phải tìm hiểu, phát hiện và hóa giải những bất cập để những chính sách hỗ trợ NNC đi nhanh và hiệu quả vào thực tiễn, nhân rộng trong các trường đại học, từ đó trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng đào tạo; đẩy nhanh số lượng và nâng cao chất lượng các công bố quốc tế, qua đó nâng cao thứ hạng các trường đại học Việt Nam trong các bảng xếp hạng đại học của khu vực và thế giới.
Đã có 945 nhóm nghiên cứu trong trường đại học
Tại hội thảo,GS.TSKH Nguyễn Đình Đức và cộng sự đã đưa ra một khảo sát quan trọng của nhóm thực hiện đề tài với các giảng viên ở 40 trường đại học, kết quả cho thấy có 58,8% (127/216) khẳng định đang tham gia các NNC.
Trên cơ sở khảo sát từ 142/271 trường đại học, hiện nay trong hệ thống các trường đại học đã hình thành 945 NNC, một trường đại học có trung bình 7 NNC”. Độ tuổi đông nhất của các thành viên trong NNC là ở lứa tuổi từ 35-45 là 59,2%.
Các kết quả khảo sát cũng ghi nhận, nhiều NNC mới được tạo lập từ 2017 trở lại đây. Điều này có thể lý giải bởi áp lực của yêu cầu về công bố quốc tế với độ ngũ giảng viên và NCS.
Đóng góp lớn nhất của các NNC trong 5 năm qua là đã tạo được sự chuyển biến đột phá về chất lượng.
Đến nay, 80% các NCS trong lĩnh vực KHTN- CN của ĐHQGHN, cũng như nhiều NCS của trường ĐH Bách Khoa Hà Nội, ĐH Y Hà Nội, ĐH Tôn Đức Thắng, ĐH Duy Tân và nhiều trường đại học khác, nhờ trưởng thành trong các NNC nên khi bảo vệ luận án TS đều đã có công bố quốc tế ISI.
GS Đức cho hay, các kết quả khảo sát của chúng tôi cho kết quả 65,3% các giảng viên tham gia các NNC đã có các công bố trên các tạp chí ISI/Scopus. Nhờ nâng chuẩn chất lượng và có chính sách hỗ trợ cho nghiên cứu và các NNC, công bố quốc tế của Việt Nam đã đặc biệt tăng mạnh trong 5 năm gần đây.
Ví dụ, năm 2013, tổng công bố quốc tế của cả Việt Nam hết sức khiêm tốn, ở mức 2309 bài, thì theo thống kê mới đây nhất của nhóm nghiên cứu độc lập của trường ĐH Duy Tân, tính từ 2017 đến thời điểm công bố vào tháng 6/2018, chỉ riêng các công bố quốc tế của 30 trường đại học Việt Nam hàng đầu trong danh sách này đã đạt 10.515 bài, và hơn cả giai đoạn 5 năm trước 2011-2015, khi đó toàn Việt Nam, trong 5 năm mới có 10.034 bài. Có thể nhận thấy sự gia tăng các công bố quốc tế tỷ lệ thuận với sự gia tăng các NNC trong các trường đại học của Việt Nam.
Video đang HOT
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức: “Các NNC chính là môi trường để các nhà khoa học được thể hiện và phát huy năng lực chuyên môn trong đào tạo và nghiên cứu”.
5 hạn chế cản bước nhóm nghiên cứu
Cũng theo khảo sát, NNC trong các lĩnh vực cũng không đồng đều và có sự chênh lệch khá lớn: KHTN: 40,2%; Công nghệ – kỹ thuật chiếm 37%; Xã hội nhân văn chiếm 22,8% và Kinh tế – Luật chỉ chiếm 10,2%; trong khi Khoa học Giáo dục chỉ chiếm 1,6%.
Khảo sát cũng đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế chủ yếu của các NNC hiện nay ở Việt Nam là:
Thứ nhất, số lượng các công bố quốc tế của các NNC còn khá khiêm tốn. Trong đó có 37,5% số thầy cô được hỏi chưa có công bố quốc tế ISI/Scopus, và 34,7% chưa có công bố quốc tế nào khác. Số các giảng viên có công bố quốc tế ISI/Scopus trên 5 bài chỉ có 34,2%. 32,9% chưa có sách chuyên khảo nào.
Thứ hai, còn thiếu cán bộ khoa học đầu ngành dẫn dắt NNC. Kết quả khảo sát mới cho thấy trong số các cán bộ được hỏi mới có 75% các NNC là do các GS, PGS dẫn dắt. Bên cạnh đó, kết quả khảo sát đánh cho thấy 96% cho rằng vai trò dẫn dắt của người trưởng nhóm rất quan trọng, 97,6% cho rằng bên cạnh người trưởng nhóm, chất lượng các thành viên tham gia NNC cũng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển NNC.
Thứ ba, nguồn lực đầu tư cho các NNC còn hạn chế. Kinh phí cho các đề tài rất khiêm tốn và thường bị cấp chậm. Có đến 93,7% số người được hỏi cho rằng kinh phí để đầu tư cho NNC có vai trò hết quan trọng trong việc duy trì và phát triển NNC.
Qua phỏng vấn sâu các trưởng NNC cho thấy, kinh phí cần được hỗ trợ bên cạnh để chi trực tiếp cho hoạt động chuyên môn, còn cần để thu hút nhân tài, thu hút các TS trẻ làm post-doctoral trong nhóm, thu hút các NCS và các sinh viên tài năng (nhằm duy trì đội ngũ này làm việc trong NNC, thay vì các em đã được đào tạo nhưng sau khi tốt nghiệp lại phải đi làm ở ngoài doanh nghiệp).
Thứ tư, CSVC, thiết bị đầu tư cho nghiên cứu không có, hoặc rất thiếu, hoặc không đồng bộ.
Thứ năm, chưa có những cơ chế chính sách mạnh để hỗ trợ và thúc đẩy sự hình thành và phát triển các NNC trong các trường đại học. Nếu có sự hỗ trợ cũng là mức kinh phí rất nhỏ.
Quốc tế hóa trong các hoạt động nghiên cứu chưa cao
GS.TSKH Nguyễn Đình Đức cho rằng, nguyên nhân chính của những hạn chế tồn tại nêu trên trước hết xuất phát từ chủ quan các cán bộ giảng viên còn chưa ý thức được đầy đủ việc gắn kết công tác đào tạo với nghiên cứu, và chưa ý thức được tầm quan trọng của việc làm việc và rèn luyện, nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn thông qua NNC.
Qua khảo sát còn có 2,2% trả lời không có nhu cầu tham gia NNC và 15,7% trả lời chưa rõ được lợi ích của việc tham gia các NNC. Thứ đến là chính sách hỗ trợ , khuyến khích của đơn vị đào tạo cho các NNC hoặc chưa có, hoặc chưa cụ thể, hoặc còn chưa đáng kể, tức là chính đơn vị đào tạo cũng chưa có những giải pháp quyết liệt để đầu tư cho các NNC.
Và nguyên nhân đặc biệt quan trọng mà GS Đức đưa ra là sự hội nhập quốc tế trong các nghiên cứu của các nhà khoa học và mức độ quốc tế hóa trong các hoạt động của nhiều trường đại học Việt Nam còn chưa cao. Có đến 16,7% các cán bộ giảng viên được hỏi trả lời chưa từng tham gia hội nghị quốc tế nào (được tổ chức ở trong cũng như ngoài nước).
GS Nguyễn Đình Đức cho rằng, để chúng ta có thể nắm bắt được những cơ hội của của cách mạng công nghiệp lần thứ 4, không chỉ cần nguồn nhân lực chất lượng cao mà cần có nhân tài. Chính vì vậy, các NNC cũng không là ngoại lệ và vấn đề thu hút nhân tài cũng là thách thức lớn đặt ra với các NNC trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay.
Việc thu hút và trọng dụng tài năng trí thức (trong và ngoài nước) trong các trường đại học phải được thực hiện trong mô hình của các NNC, vì các NNC chính là môi trường để các nhà khoa học được thể hiện và phát huy năng lực chuyên môn trong đào tạo và nghiên cứu.
Để khắc phục những hạn chế tồn tại và những nguyên nhân chủ yếu nêu trên, cũng như thu hút được nhân tài, đáp ứng được xu thế phát triển và vận động khách quan của các NNC, nhóm nghiên cứu khảo sát kiến nghị Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần sớm xây dựng chính sách hỗ trợ cho việc xây dựng và phát triển các NNC trong các trường đại học.
Theo GS Đức, thực tế cho thấy các NNC thuộc các lĩnh vực khác nhau cần có những chính sách khác nhau. Các NNC cũng có quy mô, trình độ và thành tích nghiên cứu, đào tạo nghiên cứu, uy tín và khả năng kết nối, hợp tác trong ngoài nước rất khác nhau, vì vậy, các chính sách cũng cần xây dựng các tiêu chí đánh giá phù hợp với từng đối tượng để đảm bảo đầu tư không lãng phí, tránh cào bằng và đem lại hiệu quả cao nhất.
“Chúng tôi đề xuất có thể xây dựng các tiêu chí để phân biệt các NNC thành 3 loại cơ bản: NNC cấp cơ sở giáo dục đại học, NNC mạnh cấp quốc gia và NNC quốc tế để có những cơ chế chính sách đầu tư và yêu cầu về chuẩn đầu ra phù hợp” – GS Đức nhấn mạnh.
Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc
Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc khẳng định: “Trong thời gian tới, để thúc đẩy sự phát triển của nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục đại học thì Bộ GD&ĐT và Bộ KHCN sẽ tham mưu Chính phủ xây dựng cơ chế chính sách để hình thành cơ sở giáo dục đại học định hướng nghiên cứu mạnh thực sự và sống được bằng khoa học”.
Nhật Hồng
Theo Dân trí
Trường đại học chi tiền tỷ để thu hút tiến sĩ
Muốn có nhân lực từ tiến sĩ trở lên làm việc các trường đại học không ngại thay đổi cơ chế.
Mỗi năm chi 3- 5 tỷ để thu hút, nâng cao trình độ
Khi thực hiện tự chủ năm 2016, Trường ĐH Công nghiệp Thực phẩm TP.HCM có nhiều chính sách về nhân lực,nhằm thu hút các nhà khoa học, nhà quản lý có năng lực, trình độ về làm việc.
Ông Nguyễn Xuân Hoàn, Phó Hiệu trưởng phụ trách nhà trường, cho hay trường rất muốn thu hút các nhà khoa học có khả năng phát triển các nguồn lực về phát triển đội ngũ cộng sự để hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh, các chương trình/dự án/đề tài nghiên cứu trọng điểm, phát triển các chương trình đào tạo hay Các nhà khoa học đáp ứng chuẩn quốc tế và khu vực có trình độ tiến sĩ hoặc tương đương trở lên, giảng dạy và nghiên cứu khoa học bằng ngoại ngữ, có công bố quốc tế, đã chủ trì các đề tài cấp bộ hoặc tương đương trở lên/hoặc trưởng nhóm nghiên cứu có thành tích/có sản phẩm nghiên cứu được chuyển giao có năng lực đẩy mạnh hợp tác quốc tế. Để thu hút, trường thực hiện hỗ trợ tài chính đối với các cá nhân có học vị tiến sĩ là 75 triệu đồng/người; phó giáo sư 100 triệu đồng/người; giáo sư là 150 triệu đồng/ người, với điều kiện họ phải làm việc tối thiểu 5 năm ở trường.
Tiến sĩ do Trường ĐH Bách khoa TP.HCM đào tạo (Ảnh:NS)
Ngoài điều kiện về tài chính, trường cũng tạo điều kiện hết sức cho những cá nhân này khi về trường như được hưởng 100% lương khi đi học nâng cao, được trọng dụng trong lĩnh vực giáo dục đại học, có cơ hội tiếp cận nguồn lực và được ưu tiên đầu tư theo đề án, dự án; môi trường làm việc tốt và được tôn vinh kịp thời. Ngoài ra, để thúc đẩy nghiên cứu mỗi cá nhân bài báo đăng trên tạp chí khoa học ISI hoặc Scopus sẽ được thưởng thêm 50 triệu đồng.
"Trung bình, mỗi năm chúng tôi chi từ 3.5-5 tỷ để thu hút nhân lực, cử đi học nâng cao trình độ ở nước ngoài. Tuy nhiên nhờ chính sách này mà đội ngũ nhân lực có trình độ cao của trường đang tăng nhanh. Nếu trước năm 2016 chúng tôi chỉ có 4 PGS, 12 TS thì hiện tại đã có 2 GS; 14 PGS; 103 TS làm việc. Trong số này đối tượng chủ yếu theo diện thu hút"- ông Hoàn cho hay.
Trường ĐH Lao động Xã hội cơ sở 2 ở TP.HCM cũng có chính sách "trải thảm" mời tiến sĩ về làm việc. Những tiến sĩ nếu đáp ứng tiêu chuẩn của nhà trường sẽ được nhận khoản ưu đãi 50 triệu đồng với cam kết làm việc đủ 5 năm. Các tiến sĩ sẽ được trọng vọng, ngoài lương theo hệ số, còn có thu nhập tăng thêm, nếu giảng vượt giờ sẽ được trả rất cao. Khi về trường, tiến sĩ cũng được bố trí cho giữ các vị trí như giảng viên phụ trách bộ môn, phụ trách khoa. Ngoài việc "trải thảm", trường cũng tự đầu tư nguồn lực bằng cách bằng cách gửi đi học, đào tạo; chi trả học phí, tài liệu, đi lại; miễn giờ giảng và cho hưởng nguyên lương. Chỉ trong một thời gian ngắn, trường đã đầu tư trên 3 tỷ đồng cho chính sách đào tạo cán bộ giảng viên và và thu hút nhân lực trình độ cao về trường.
Ông Tô Văn Phương, Trưởng phòng đào tạoTrường ĐH Nha Trang cũng cho hay, những người có học vị tiến sĩ về trường làm việc sẽ được hỗ trợ tùy theo khả năng tài chính của trường và tùy theo chuyên ngành đào tạo đáp. Mức hỗ trợ do hiệu trưởng xem xét nhưng tối đa là 40 triệu đồng/người. Những cá nhân này sẽ được nhận tiền khi hoàn thành tập sự giảng dạy. Ngoài hỗ trợ tài chính, những cá nhân này sẽ được ưu tiên về giảng dạy, hay tham gia hướng dẫn luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ.
Tuy nhiên, ông Phương cũng cho hay, những người được nhận hỗ trợ này phải có cam kết làm việc tại trường một khoảng thời gian tối thiểu theo thỏa thuận, ít nhất là 10 năm. Trong trường hợp, nếu chuyển công tác hoăc thôi việc khi chưa đủ thời gian thì phải hoàn lại trường khoản hỗ trợ này.
Thay đổi môi trường làm việc
Không chi tiền trải thảm, nhưng nhiều trường đại học hiện nay đang tạo ra những cơ chế đặc biệt trong tuyển dụng môi trường làm việc - điều mà các nhà khoa học cho rằng đây là yếu tố quan trọng thời gian và hiệu quả công việc.
Ông Đỗ Văn Dũng, Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM, cho hay để thu hút nhân lực có trình độ tiến sĩ, nhà trường thay đổi trong môi trường làm việc.
"Chúng tôi xác định vấn đề đầu tiên để họ về trường không phải là tiền mà là môi trường làm việc".
Theo ông Dũng, để thu hút nguồn nhân lực này, trường đã làm những cái chưa từng làm.
"Trước đây, để mời được một tiến sĩ nổi tiếng đang làm việc ở Hàn Quốc về, tôi đã hỏi ông ấy cần gì. Sau khi nhà nghiên cứu này bảo cần một phòng thí nghiệm, chúng tôi đã trang bị một phòng thí nghiệm như ở Hàn Quốc để ông làm việc"- ông Dũng kể.
Ngoài ra, theo ông Dũng, ngoài môi trường làm việc tốt, nhiều cơ chế khác cũng được trường áp dụng như hỗ trợ kinh phí cho những cá nhân này tham gia các hội thảo trong nước, quốc tế; thực hiện chính sách khen thưởng cho nhưng bài báo này đăng quốc tế, trả mức thu nhập cao.
"Bất kỳ tiến sĩ nào khi về trường sẽ thưởng ngay 30 triệu mà không yêu cầu cam kết thời gian làm việc. Chúng tôi không ràng buộc thời gian vì nếu đã muốn đi họ cũng sẵn sàng trả lại tiền để đi, còn không thì họ tự nguyện làm việc"- ông Dũng khẳng định.
Theo ông Dũng, nhờ chính sách này, hiện tạ số giảng viên, nhà nghiên cứu có trình độ từ tiến sĩ trở lên đã tăng lên 5 lần so với trước. Để bổ sung, hàng năm trường thực hiện 2 đợt tuyển dụng, các cá nhân sẽ nộp hồ sơ, thực hiện phỏng vấn, test trình độ tiếng Anh.
Trong khi đó, Trường ĐH Kinh tế TP.HCM thực hiện thu hút nhân lực có trình độ từ tiến sĩ trở lên bằng cách thay đổi cách thức tuyển dụng.
Ông Nguyễn Thiện Duy, Trưởng phòng Công tác chính trị, cho hay theo luật, việc tuyển dụng vào đơn vị công lập sẽ thi tuyển. Nhưng trường áp dụng chính sách đặc biệt đối với nhân lực có trình độ từ tiến sĩ trở lên bằng cách nộp hồ sơ xét tuyển.
"Đây là chính sách lớn nhất được chúng tôi áp dụng để thu hút nhân lực có trình độ cao. Tất nhiên, những nhân lực này khi về trường làm việc được hưởng những chế độ theo quy định"- ông Duy khẳng định.
Ngoài đặc cách tuyển dụng, Trường ĐH Kinh tế TP.HCM cũng có chính sách thu hút các nhà nghiên cứu nước ngoài làm việc toàn thời gian ở trường. Họ sẽ được hưởng mức lương thỏa thuận được xác định trên mức độ ưu tiên nhiệm vụ khoa học, tính chất quy mô, tầm quan trọng của nhiệm vụ khoa học, trình độ, năng lực hiệu quả, đóng góp cá nhân. Trong thời gian làm việc, sẽ được bố trí một phòng làm việc riêng với diện tích trang thiết bị phù hợp; Được bố trí một phòng ở không thu tiền nhà khách của trường.
Tuy nhiên ông Duy cho hay, do thực hiện chính sách làm việc fulltime tại trường nên sau 1 năm triển khai, tới nay mới chỉ có 1 nhà khoa học làm việc theo diện này.
Ngoài ra, các trường đại học khác như Trường ĐH Sư phạm TP.HCM, Trường ĐH Sài Gòn cũng thực hiện thay đổi môi trường, tạo điều kiện cho các nhân lực có trình độ tiến sĩ trở lên về làm việc.
Ông Lê Văn Út, Trưởng Phòng Quản lý Phát triển Khoa học, Công nghệ Trường ĐH Tôn Đức Thắng cho hay, trước đây trường có chính sách "trải thảm đỏ" cho những tiến sĩ về làm việc, nhưng hiện tại trường đã bỏ vì những người được trải thảm đỏ về làm việc có hiệu quả.
"Hiện nay chúng tôi lựa chọn nhà khoa học có hiệu suất tốt và nhà trường đãi ngộ xứng đáng bằng thu nhập và môi trường làm việc tốt"- ông Út cho hay
Lê Huyền
Theo vietnamnet
Giáo dục đại học Việt Nam: Bước "nhảy vọt" trong công bố quốc tế Chỉ tính riêng công bố quốc tế của 30 trường đại học hàng đầu Việt Nam, tính từ 2017 đến tháng 6/2018 đã đạt 10.515 bài, bằng cả giai đoạn 5 năm trước 2011-2015 công bố trên toàn quốc. GS.TSKH Nguyễn Đình Đức đã cho biết như vậy khi tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 29 về Đổi mới căn bản...