Nhiều giải pháp giảm thiểu rủi ro cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Trong thời gian qua, Bộ Tài chính đã ban hành nhiều giải pháp về cơ chế chính sách và quản lý giám sát để hạn chế, giảm thiểu những rủi ro cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN).
Đó là khẳng định của ông Nguyễn Hoàng Dương, Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính (Bộ Tài chính) tại Hội thảo công bố báo cáo thường niên thị trường trái phiếu Việt Nam năm 2019 và đối thoại các giải pháp phát triển thị trường TPDN do Bộ Tài chính phối hợp với Cơ quan Hỗ trợ phát triển Đức, Ngân hàng Thế giới, Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam và Ngân hàng PVBank tổ chức mới đây.
Đại diện Bộ Tài chính cho biết, trước sự tăng trưởng và phát triển nhanh của thị trường TPDN, Bộ Tài chính đã thực hiện đồng bộ các giải pháp về cơ chế chính sách và quản lý giám sát để hạn chế, giảm thiểu những rủi ro cho thị trường.
Từ cuối năm 2019 đến nay, Bộ Tài chính liên tục có những thông tin khuyến nghị, cảnh báo đối với tất cả đối tượng tham gia thị trường TPDN trong bối cảnh lĩnh vực này tăng trưởng mạnh. Đối với nhà đầu tư cá nhân, khi mua TPDN phải đánh giá tình hình tài chính, tính khả thi của dự án phát hành khi ra quyết định để đầu tư TPDN nhằm giảm thiểu rủi ro khi nguy cơ doanh nghiệp có thể không trả được nợ gốc và lãi vay.
Theo đó, Bộ Tài chính đã thường xuyên thông tin, tuyên truyền về tình hình thị trường TPDN và khung khổ pháp lý để giúp các nhà đầu tư, các đối tượng tham gia thị trường nắm bắt và tuân thủ quy định của pháp luật, phòng ngừa rủi ro trên thị trường.
Bên cạnh đó, Bộ cũng ban hành nhiều thông cáo để khuyến nghị các chủ thể tham gia thị trường TPDN, cảnh báo nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư cá nhân phải cân nhắc về các rủi ro khi đầu tư TPDN, thận trọng đối với việc chào mời và cam kết của công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại khi phân phối TPDN.
Cụ thể, các cơ chế chính sách về phát hành TPDN liên tục được hoàn thiện nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp huy động vốn, đồng thời tăng cường sự minh bạch và giảm thiểu rủi ro thị trường. Nghị định số 163/2018/NĐ-CP đã bổ sung quy định về hạn chế giao dịch trong vòng một năm kể từ ngày phát hành để phân biệt giữa phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng; hoàn thiện cơ chế công bố thông tin và thiết lập chuyên trang thông tin về TPDN riêng lẻ; yêu cầu trái phiếu phải được đăng ký, lưu ký nhằm kiểm soát nhà đầu tư và hạn chế khi giao dịch trái phiếu.
Trong bối cảnh doanh nghiệp đẩy mạnh phát hành trái phiếu để huy động vốn, nhà đầu tư cá nhân nhỏ, lẻ vẫn được mua TPDN riêng lẻ, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 81/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2018/NĐ-CP quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp nhằm nâng cao tiêu chuẩn, điều kiện phát hành. Nghị định số 81/2020/NĐ-CP đã tạo khuôn khổ pháp lý chặt chẽ hơn đối với phát hành trái phiếu riêng lẻ.
Cụ thể, một số điểm mới về điều kiện phát hành trái phiếu và việc công bố thông tin phát hành như dư nợ phát hành riêng lẻ tại thời điểm phát hành đã được đưa vào Nghị định.
Bên cạnh đó, Luật Chứng khoán sửa đổi và Luật Doanh nghiệp sửa đổi đã được ban hành và bắt đầu có hiệu thi hành từ ngày 01/01/2021, trong đó quy định thống nhất về phát hành TPDN riêng lẻ của các loại hình doanh nghiệp, phân biệt giữa kênh phát hành riêng lẻ và phát hành ra công chúng.
Video đang HOT
Hiện nay, Bộ Tài chính đang khẩn trương xây dựng các nghị định và thông tư hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán sửa đổi và Luật Doanh nghiệp sửa đổi nhằm tạo ra khung khổ pháp lý đồng bộ, thống nhất cho hoạt động phát hành và giao dịch TPDN.
Bên cạnh đó, dự thảo nghị định cũng hướng dẫn cụ thể về trách nhiệm của tổ chức tư vấn hồ sơ phát hành trái phiếu, tổ chức đăng ký, lưu ký trái phiếu nhằm thiết lập cơ chế quản lý giám sát đồng bộ trên thị trường TPDN thông qua Sở giao dịch chứng khoán và tại cơ quản quản lý…
Ngoài việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tài chính đã tăng cường công tác quản lý giám sát, các đoàn kiểm tra liên bộ được thành lập góp phần đưa thị trường trái TPDN vào khuôn khổ.
Trên cơ sở kết quả kiểm tra, Bộ Tài chính có văn bản yêu cầu các đối tượng tham gia thị trường tuân thủ quy định của pháp luật và chấn chỉnh việc phát hành, cung cấp dịch vụ về TPDN. Đồng thời, Bộ Tài chính đã phối hợp với Ngân hàng Nhà nước (NHNN), Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia tăng cường giám sát liên thông trên thị trường tài chính.
Qua công tác phối hợp, NHNN đã tăng cường quản lý giám sát hoạt động phát hành, giao dịch và cung cấp dịch vụ về TPDN của tổ chức tín dụng; Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cũng tăng cường quản lý giám sát hoạt động phát hành, giao dịch và cung cấp dịch vụ về TPDN của công ty chứng khoán.
Theo ông Trần Văn Dũng, Chủ tịch UBCKNN đánh giá, với những nỗ lực đổi mới, hoàn thiện khung khổ pháp lý, thị trường TPDN đang từng bước điều hành cân bằng hơn với với thị trường tín dụng ngân hàng, giảm áp lực huy động vốn từ kênh tín dụng ngân hàng.
Theo đó, việc điều hành thị trường TPDN đang thực hiện theo đúng các định hướng phát triển thị trường tài chính và thị trường vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của khu vực tư nhân với vai trò là tổ chức phát hành và nhà đầu tư.
Đề xuất giải pháp thúc đẩy thị trường trái phiếu
Một cơ quan xếp hạng tín nhiệm được tổ chức tốt và có uy tín là một trong những mảnh ghép còn thiếu trong thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang gia tăng nhanh chóng ở Việt Nam.
Thị trường trái phiếu của Việt Nam đã khởi sắc và có tiềm năng tăng trưởng thêm.
Mảnh ghép còn thiếu
Sau nhiều năm tăng trưởng chậm, thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam đã khởi sắc. Từ năm 2012 tới 2019, lượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp đạt tỷ lệ tăng trưởng kép hằng năm là 40% và lượng trái phiếu đang lưu hành còn tồn đọng lên tới khoảng 11,5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam - cao thứ tư trong ASEAN.
Phát hành trái phiếu doanh nghiệp có thể tăng thêm. Ngân hàng Phát triển châu Á dự báo, Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng 1,8% trong năm 2020 và 6,3% trong năm 2021. Mặc dù thấp hơn so với những năm gần đây, nhưng triển vọng này là đáng ghi nhận trong thời điểm rất nhiều quốc gia đang sa lầy trong suy thoái do Covid-19 gây ra.
Các quy định ngân hàng cũng hỗ trợ cho điều này. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã áp đặt các mức trần tăng trưởng vốn vay của ngân hàng từ năm 2014. Năm ngoái, 18 ngân hàng lớn nhất của Việt Nam đã thực hiện chuẩn mực Basel II, theo đó giảm vốn khả dụng để cho vay. Các biện pháp này, cùng với hạn chế việc sử dụng vốn vay ngắn hạn để cho vay dài hạn, khiến trái phiếu ngày càng trở nên hấp dẫn.
Nhưng sự tăng trưởng trái phiếu doanh nghiệp cũng mang lại các rủi ro, nhất là khi chỉ một số ít đơn vị phát hành có xếp hạng tín nhiệm công khai. Mặc dù các nhà đầu tư không bao giờ nên đưa ra quyết định của mình chỉ dựa trên xếp hạng tín nhiệm, song đây là một tham chiếu quan trọng, có thể thúc đẩy kỷ luật thị trường bằng cách không khuyến khích các nhà đầu tư "chạy theo lợi nhuận", cũng như không khuyến khích các bên phát hành đưa ra các cổ phiếu "ràng buộc lỏng".
Hơn nữa, xếp hạng tín nhiệm có thể giúp các đơn vị phát hành bảo đảm những điều khoản có lợi hơn, bao gồm thời hạn dài hơn và chênh lệch tín dụng thấp hơn. Điều này sẽ làm giảm chi phí vốn của bên vay và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Việc xếp hạng còn ít do Việt Nam thiếu một tổ chức xếp hạng tín nhiệm trong nước nổi trội. Hai cơ quan đã được cấp phép, nhưng đều mới được thành lập. Trong khi đó, Cơ quan Xếp hạng Philippines (Phil Ratings) được thành lập năm 1985, Cơ quan Xếp hạng Malaysia (Rating Agency Malaysia) được thành lập năm 1990, còn Pefindo ở Indonesia và Cơ quan Dịch vụ thông tin và Xếp hạng Thái Lan được thành lập năm 1993.
Trên khắp châu Á, các đơn vị xếp hạng tín nhiệm đã thiết lập quan hệ đối tác với các cơ quan xếp hạng tín nhiệm toàn cầu để có được uy tín. Việt Nam cần đi theo mô hình đó.
Các cơ quan xếp hạng tín nhiệm toàn cầu nhiều khả năng ưu tiên 3 yếu tố.
Thứ nhất là tính độc lập trong phân tích, điều mà Việt Nam cam kết. Các bên liên quan trong thị trường hiểu rõ mức độ quan trọng của sự độc lập này đối với uy tín của một tổ chức xếp hạng tín nhiệm.
Thứ hai là sự hỗ trợ của các bên liên quan. Tại Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị định 88/2014/NĐ-CP, tạo cơ sở pháp lý để cấp phép cho các tổ chức xếp hạng tín nhiệm. Chính phủ còn hỗ trợ rất nhiều sự kiện để tuyên truyền, phổ biến cho thị trường về giá trị của việc xếp hạng. Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam - hiệp hội ngành nghề hàng đầu - cũng được hỗ trợ.
Thứ ba là nhu cầu. Đây là một thách thức. Một tài liệu nghiên cứu của Ngân hàng Phát triển châu Á được công bố gần đây, do Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia tài trợ, đã ước tính rằng, cần phải xếp hạng khoảng 1/3 số trái phiếu phát hành mới tạo ra doanh thu đủ để duy trì một cơ quan xếp hạng trong nước. Nhu cầu xếp hạng này ít có khả năng sẽ tự động nảy sinh.
Năm sáng kiến phối hợp
Việt Nam nên cân nhắc 5 sáng kiến phối hợp sau đây để thúc đẩy sự tăng trưởng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp:
Phổ biến kiến thức cho thị trường. Việt Nam sẽ chấm dứt việc phát hành không được xếp hạng, nếu các đơn vị phát hành hiểu rõ hơn các lợi ích mà xếp hạng có thể mang lại xét tới số lượng phát hành lớn hơn, giá thấp hơn, thời hạn dài hơn và nếu các nhà đầu tư nắm bắt được lợi ích của việc xếp hạng từ tính minh bạch cao hơn, chuẩn đối sánh, giao dịch thị trường thứ cấp.
Các doanh nghiệp nhà nước. Để thay đổi được văn hóa tín nhiệm, thị trường cần có ví dụ về các công ty được hưởng lợi từ việc có xếp hạng tín nhiệm. Các doanh nghiệp nhà nước cần phải tiên phong. Điều này sẽ phù hợp với các sáng kiến của chính phủ nhằm khiến các doanh nghiệp nhà nước huy động vốn vay nhiều hơn dựa trên bảng cân đối tài chính của mình, đa dạng hóa nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước ngoài vốn vay ngân hàng và tạo thuận lợi cho việc phát hành đối chuẩn, từ đó giúp xây dựng đường cong tín nhiệm và văn hóa tín nhiệm.
Bảo hiểm Xã hội Việt Nam. Ở nhiều nước, các quỹ hưu trí là những bên mua trái phiếu doanh nghiệp lớn nhất. Tuy nhiên, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, quỹ hưu trí được Nhà nước bảo trợ, chỉ có thể mua trái phiếu doanh nghiệp phát hành bởi các ngân hàng. Bảo hiểm Xã hội Việt Nam cần phải đa dạng hóa với các trái phiếu doanh nghiệp ngoài lĩnh vực ngân hàng để gia tăng lợi nhuận tài chính và đa dạng hóa danh mục đầu tư. Nếu Bảo hiểm Xã hội Việt Nam yêu cầu trái phiếu doanh nghiệp phải được xếp hạng, điều này sẽ không chỉ thúc đẩy nhu cầu xếp hạng, mà còn giúp Bảo hiểm Xã hội Việt Nam quản lý rủi ro đối với các tài sản này.
Bắt buộc xếp hạng. Việt Nam đã thông qua Luật Chứng khoán mới vào năm 2019, yêu cầu việc xếp hạng đối với một số loại trái phiếu phát hành ra công chúng. Nhưng Dự thảo Nghị định được đưa ra lấy ý kiến rộng rãi trong tháng 6/2020 đề xuất rằng, bất kỳ loại trái phiếu nào cũng có thể được miễn xếp hạng.
Việt Nam cần quy định việc xếp hạng là bắt buộc hoặc tất cả trái phiếu phát hành ra công chúng cần phải xếp hạng, theo gương của các quốc gia trong khu vực. Xếp hạng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng chi phí của việc phát hành trái phiếu và trong nhiều trường hợp, chi phí này đã được bù đắp thông qua các điều khoản tốt hơn. Xếp hạng không chỉ giúp xây dựng văn hóa tín nhiệm, mà còn là các công cụ điều tiết quan trọng để giám sát sự lành mạnh của thị trường.
Phát hành ra công chúng. Trong năm 2018 và 2019, phát hành ra công chúng chiếm 94% lượng trái phiếu phát hành. Để tránh gia tăng tình trạng bất thường này, bất kỳ bước đi nào hướng tới việc xếp hạng bắt buộc trái phiếu phát hành ra công chúng cũng cần phải được kết hợp với nỗ lực hợp lý hóa hoạt động chào bán ra công chúng và thắt chặt các quy định về phát hành ra công chúng.
Một cơ quan xếp hạng tín nhiệm được tổ chức tốt và có uy tín là một trong những mảnh ghép còn thiếu trong thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang gia tăng nhanh chóng ở Việt Nam. Các quan hệ đối tác với các tổ chức xếp hạng toàn cầu sẽ mở ra tiềm năng của thị trường, nhưng các tổ chức xếp hạng toàn cầu muốn bảo đảm chắc chắn rằng nhu cầu xếp hạng là có thật.
Chính phủ có thể đặt nền móng thông qua các cải cách thúc đẩy nhu cầu xếp hạng tín nhiệm và thúc đẩy sự phát triển thận trọng của thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
Vì sao doanh nghiệp 'quay lưng' với phát hành trái phiếu ra công chúng? Giới đầu tư cho rằng nên có cơ chế khuyến khích hình thức phát hành ra công chúng, vốn minh bạch và an toàn hơn cho nhà đầu tư. Hình thức phát hành ra công chúng, vốn minh bạch và an toàn cho nhà đầu tư hơn, lại không được phần lớn doanh nghiệp lựa chọn Hoạt động phát hành trái phiếu doanh...