Nhà giáo nhân dân Vũ Minh Giang: Đào tạo tiến sĩ cần phải thực chất
Cần loại ngay những công bố không thực chất, sớm chấm dứt vấn nạn “gánh vàng đi đổ sông Ngô” về những bài báo công bố quốc tế không phục vụ gì nhiều cho Việt Nam, lãng phí nguồn lực quốc gia.
Ảnh minh hoạ/internet
GS.TSKH.NGND Vũ Minh Giang – Chủ tịch Hội đồng Khoa học & Đào tạo (ĐH Quốc gia Hà Nội) nhấn mạnh điều này khi trao đổi với báo chí.
Những tín hiệu tích cực, thực chất
* GS đánh giá thế nào về Quy chế tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ vừa được Bộ GD&ĐT công bố ban hành?
“Trong vài năm trở lại đây bắt đầu xuất hiện những bài về khoa học xã hội & nhân văn của tác giả Việt Nam trên một tạp chí nằm trong danh mục ISI/SCOPUS của một số nước Đông Âu. Nói một cách thẳng thắn, những bài viết như vậy khó có thể đăng được trên tạp chí chuyên ngành ở Việt nam”.
GS.TSKH.NGND Vũ Minh Giang
- Quy chế là loại văn bản có hai đặc tính hết sức quan trọng. Đó là những quy định buộc phải theo những chuẩn tắc để đảm bảo tính nghiêm minh và thống nhất cho một loại hình hoạt động nào đó, ở đây ta đang nói tới công việc đào tạo tiến sĩ. Nhưng đồng thời, Quy chế còn có có chức năng điều chỉnh hành vi, tác động tới những người tham gia hoạt động hướng tới mục tiêu cần đạt.
Văn bản này, theo tôi, chưa phải là một Quy chế “mới”, bởi phần nhiều vẫn giữ những nội dung trong Quy chế đã được ban hành ngày 4 tháng 4 năm 2017 cùng Thông tư số/08/2017 TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tuy nhiên, Quy chế chỉnh sửa, bổ sung sung lần này có một số điểm mới quan trọng. Những tín hiệu tích cực của những điểm mới này nằm ở chỗ hướng tới thực chất của hoạt động nghiên cứu trong quá trình đào tạo tiến sĩ.
GS.TSKH. NGND Vũ Minh Giang
* Vậy GS có thể nói rõ hơn về điểm mới này?
- Có một thực tế là sau khi Quy chế 2017 được ban hành với quy định cả người hướng dẫn và nghiên cứu sinh buộc phải có công bố quốc tế nằm trong danh mục ISI/SCOPUS thì hầu hết các cơ sở đào tạo tiến sĩ trong cả nước đều lâm vào tình trạng khó khăn.
Thậm chí có ngành không có nghiên cứu sinh nào ứng thí. Thoạt nhìn thì dễ đi tới nhận xét rằng các cơ sở đào tạo của ta kém quá, không đáp ứng được trình độ quốc tế. Do đó đưa ra quy định này là để nâng chất lượng tạo tiến sĩ để từng bước hội nhập với thế giới.
Vấn đề không đơn giản như vậy. Có nhiều cách phân loại khoa học, nhưng để nói về tính quốc tế ở mức độ cao chỉ có một số lĩnh vực mà điển hình là Toán và sau đó là Lý, Hóa… Rất nhiều lĩnh vực khoa học còn lại mang tính khu vực. Ngay cả trong khoa học tự nhiên như Sinh, Địa… – đối tượng và kết quả nghiên cứu cũng phụ thuộc vào những khu vực cụ thể.
Khoa học xã hội và nhân văn là những lĩnh vực không thể thoát ly khỏi hoạt động của con người trong một không gian nhất định, phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm văn hóa, xã hội, chính trị của từng quốc gia, dân tộc mà trước hết và chủ yếu phải phục vụ đường lối, chính sách và sự phát triển của quốc gia dân tộc mình. Vì vậy buộc những nhà nghiên cứu, các nghiên cứu sinh trong các lĩnh vực này phải đưa kết quả nghiên cứu ra nước ngoài công bố cần phải xem xét lại.
Các công trình trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn của ta chủ yếu viết về Việt Nam. Để đăng, thường phải chen vào các tạp chí viết chung về Đông Nam Á (có hơn chục nước) hoặc châu Á (có gần 60 nước) nên mỗi năm số bài về Việt Nam được chấp nhận đăng là rất ít.
Thứ hai, không dễ gì các tạp chí trong danh mục ISI/SCOPUS của các nước phương Tây chấp nhận quan điểm, cách tiếp cận dựa trên học thuyết Mac-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh của các học giả Việt Nam, nên cửa đăng bài về Việt Nam càng hẹp hơn.
Thứ ba, điều tôi muốn nhấn mạnh là để thích ứng với những “quy định cứng” này đang có xu hướng tìm đường có công bố quốc tế bằng mọi giá, vừa không thực chất vừa xa dần tính thực chất của nghiên cứu khoa học.
Tôi đánh giá rất cao những điều chỉnh mới trong Quy chế đào tạo tiến sĩ, hướng tới thực chất của hoạt động nghiên cứu khoa học. Tôi hiểu việc Quy chế đưa ra quy định các bài công bố tại các tạp chí trong nước theo tiêu chuẩn đánh giá của Hội đồng chức danh Giáo sư nhà nước đạt từ 0,75 điểm trở lên, cho phép thay thế các công bố nghiên cứu khoa học bằng những kết quả nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ đã đăng ký và được cấp bằng độc quyền sáng chế quốc gia hoặc quốc tế; hoặc giải thưởng chính thức của cuộc thi quốc gia hoặc quốc tế trong lĩnh vực nghệ thuật và nhóm ngành thể dục, thể thao, được công nhận – bởi cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền vừa phản ánh đúng thực tế, vừa tạo động lực để các tạp chí trong nước không ngừng nâng cao chất lượng.
Quyết định này của Bộ GD&ĐT có tầm nhìn, bám sát nhu cầu và đáp ứng đòi hỏi cấp bách của tình hình thực tiễn. Bởi các cơ sở đào tạo sau đại học, đặc biệt là cơ sở đào tạo tiến sĩ, trong một thời gian khá dài đã gặp nhiều vướng mắc với quy chế cũ. Tôi tin rằng chỉnh sửa mới của Bộ GD&ĐT sẽ đáp ứng được yêu cầu mà các cơ sở đào tạo đang chờ đón.
Video đang HOT
Về một phương diện khác, tôi cho rằng, nơi công bố (NXB, Tạp chí) rất quan trọng nhưng mới chỉ là những bao bì đẹp. Điều quan trọng là chất lượng bên trong của công bố mới có ý nghĩa quyết định. Đối với nghiên cứu Việt nam thì bài đăng trên tạp chí nước ngoài không hẳn đã có chất lượng cao hơn đăng trên tạp chí trong nước.
Điều rất đáng nói là với điều chỉnh mới này, Bộ GD&ĐT đã đặt lòng tin vào đánh giá của các nhà khoa học trong nước, trước hết là các chuyên gia của Hội đồng Giáo sư nhà nước.
Ảnh minh hoạ/internet
Tháo gỡ nút thắt
* Những “nút thắt” khiến điều chỉnh này trở nên cấp bách là gì, thưa GS?
“Công bố quốc tế nên có những quy định khuyến khích bằng cách đưa ra điểm công trình cao, thay vì đưa nó thành một tiêu chí bắt buộc và duy nhất. Tôi đánh giá cao điểm mới lấy tiêu chí chất lượng khoa học là chính. Điều này rất phù hợp với chỉ đạo của Thủ tướng Phạm Minh Chính, tức là phải đi theo thực chất”
GS.TSKH. NGND Vũ Minh Giang.
- Quy chế cũ lấy tiêu chí bài báo được đăng trong hệ thống ISI/Scopus như là điều kiện tiên quyết, bắt buộc, với mong muốn nhanh chóng quốc tế hoá hoạt động đào tạo tiến sĩ của Việt Nam. Nhưng có lẽ khi đó, chúng ta chưa lường tính được hết. Ở đây, tôi chỉ nói đến những lĩnh vực mà tôi có hiểu biết.
Thứ nhất, ISI/Scopus chỉ là một cách phân loại, không tuyệt đối đúng với tất cả các lĩnh vực khoa học. Như trên đã nói, nếu chúng ta tuyệt đối hoá, coi đây là chuẩn mực quốc tế duy nhất để đánh giá chất lượng công trình thì chẳng những mục tiêu đề ra không đạt được mà còn dẫn đến tình trạng nghiên cứu sinh tìm mọi cách “lách” để có bài đăng trên tạp chí quốc tế một cách không thực chất.
Hiện tượng khá phổ biến (thường thấy ở một số trường đại học nhỏ ở địa phương) là tìm đến những tạp chí ISI/SCOPUS nhưng ít được biết đến, chỉ cần đáp ứng yêu cầu nộp 1-2 nghìn USD và được chấp nhận in rất nhanh. Nhiều khi tạp chí chẳng liên quan quan gì đến chuyên môn, chẳng hạn như Nghiên cứu Lâm nghiệp (forestry studies) nhận đăng bài về lịch sử Việt Nam. Tệ hại hơn là bắt đầu hình thành một số trung tâm viết bài quốc tế thuê mà thực chất là được ghép tên vào một tập thể nào đó sau khi phải trả một khoản phí.
Đấy là chưa kể những trung tâm dịch vụ đăng bài quốc tế, nếu không cẩn thận sẽ đẩy đến tình trạng thương mại hoá. Nhiều cơ sở đào tạo bỏ tiền ra thưởng cho bài quốc tế (kể cả dạng thuê viết này) một khoản tiền nhiều hơn chi phí nộp cho các trung tâm viết thuê, có những quỹ khoa học cấp kinh phí nhiều trăm triệu chỉ cần sản phẩm có 1, 2 bài báo quốc tế. Rõ ràng những sản phẩm kiểu này không thực chất, không nâng cao chất lượng nghiên cứu mà còn hao phí nguồn lực theo kiểu “gánh vàng đi đổ sông Ngô”.
Thứ hai, không phải tạp chí nào cũng phù hợp với lĩnh vực chuyên môn nói chung, cũng không phải tạp chí nào cũng góp phần phát triển khoa học Việt Nam.
Nếu không cẩn thận và duy ngoại thì các bài báo tốt nhất các tác giả tìm mọi cách đưa ra nước ngoài thì các tạp chí trong nước sẽ không phát triển được. Đấy là chưa kể nếu cứ tiếp tục tình trạng này thì khoa học Việt Nam sẽ rơi vào bế tắc trong tư tưởng sùng bái nước ngoài.
Về khoa học xã hội và nhân văn, trong nước có rất nhiều tạp chí tốt đang rất cần nguồn lực (bài có chất lượng và đầu tư kinh phí) để phát triển, nhưng xu thế hướng ngoại tràn lan đã khiến việc này dần trở nên khó thực hiện.
Ở phương diện khác, chúng ta đang không chú ý những công bố bất lợi cho hình ảnh Việt Nam đang ngày càng gia tăng trên các tạp chí ngước ngoài như vấn đề ô nhiễm môi trường, các vấn nạn xã hội, những tiêu cực trong kinh tế-xã hội…
Những bài viết rất khách quan, số liệu và phân tích rất khoa học, nhưng chúng ta thử hình dung hình ảnh của Việt Nam trong mắt thế giới sẽ như thế nào khi công bố khoa học quốc tế chỉ xoay quanh những chủ đề như vậy mà hầu như rất ít nói về những điểm sáng, những thành tựu về phát triển kinh tế, xã hội và ổn định chính trị ở Việt Nam.
Thứ ba, tôi đánh giá rất cao tầm nhìn của Bộ GD&ĐT trong việc bám sát thực tế bởi tạp chí khoa học trong nước chưa chú trọng hình thức chứ chất lượng không kém. Để đưa vào xếp hạng và phân loại, các tạp chí trong nước chủ yếu phải phấn đấu về mặt hình thức.
Đào tạo tiến sĩ cần phải thực chất. Ảnh minh hoạ/internet
Cần sự tự tin với nền khoa học nước nhà
* Nhiều người ủng hộ với việc chấp nhận các bài công bố tại các tạp chí trong nước theo tiêu chuẩn đánh giá của Hội đồng Giáo sư Nhà nước đạt từ 0,75 điểm trở lên khi đánh giá nghiên cứu sinh và người hướng dẫn. Lại có ý kiến cho rằng mỗi nghiên cứu sinh nên có tối thiểu 1 bài tạp chí/hội thảo quốc tế, kết hợp với 1 bài tạp chí trong nước 0,75 điểm. Quan điểm của GS về hai chiều ý kiến này ra sao?
- Trước hết, tôi đề nghị bỏ chữ “chấp nhận” bởi tư duy “chấp nhận” các bài công bố trên tạp chí trong nước là một tâm lý mặc cảm tự ty, mặc nhiên coi tất cả các bài được đăng trên các táp chí trong danh mục ISI/SCOPUS là ở đẳng cấp cao hơn các bài đăng trong nước. Điều này không đúng cả trên lý thuyết lẫn thực tiễn nên cần căn chỉnh lại. Chúng ta phải có sự tự tin trong nền khoa học của Việt Nam, đặc biệt là lĩnh vực góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, xã hội của đất nước trong thời gian vừa qua.
Hội đồng Giáo sư Nhà nước đã có quy định về tạp chí, ấn phẩm được tính điểm công trình. Theo tôi, quy định mới trong Quy chế được chỉnh sửa về điều kiện của người hướng dẫn và nghiên cứu sinh là phù hợp.
Tôi tin là sau khi Quy chế này ban hành thì những hiện tượng tiêu cực như thuê viết bài, trả tiền để được đăng bài quốc tế – vốn là một nỗi đau cho các nhà khoa học, các nghiên cứu sinh, mà nhìn xa ra là giới khoa học trong nước – sẽ biến mất.
Phải loại ngay những công bố không thực chất. Cần sớm chấm dứt vấn nạn “gánh vàng đi đổ sông Ngô” về những bài báo công bố quốc tế không phục vụ gì nhiều cho Việt Nam, lãng phí nguồn lực quốc gia.
Xin cảm ơn GS!
“Tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm điều chỉnh của quy chế. Định hướng này là bước đầu nhưng có ý nghĩa rất quan trọng. Chúng ta cần những quy định điều tiết sự phát triển của khoa học đất nước; trong đó có việc là dần dần, các tạp chí của chúng ta sẽ phải nâng cao chất lượng, đồng thời, hội nhập quốc tế theo cách của mình”.
GS.TSKH. NGND Vũ Minh Giang.
Quy chế đào tạo tiến sĩ mới có "nới" nhưng không hẳn "lỏng"
Khi xác định đúng mục tiêu đào tạo tiến sĩ thì chắc chắn sẽ lựa chọn đúng xu hướng phát triển và chất lượng chứ không chạy theo là số lượng và tấm bằng.
LTS: Ngày 28/6/2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư 18/2021/TT-BGDĐT về Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ thay thế Thông tư 08/2017/TT-BGDĐT.
Để hiểu rõ hơn về vấn đề đào tạo tiến sĩ, phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam có cuộc trao đổi với Phó giáo sư Võ Văn Minh - Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng.
Từ thực tiễn, theo ông, những yếu tố nào quyết định chất lượng đào tạo tiến sĩ ở các cơ sở giáo dục đại học?
Phó giáo sư Võ Văn Minh: Đào tạo Sau đại học có 2 bậc là thạc sĩ và tiến sĩ. Tuy nhiên cũng cần phải phân biệt sự khác nhau của 2 bậc này, chứ không phải đơn giản là tiến sĩ chỉ cao hơn thạc sĩ một bậc. Mục tiêu đào tạo tiến sĩ thực chất là đào tạo ra những người có khả năng nghiên cứu độc lập.
Do vậy có 2 vấn đề rất căn bản liên quan đến đào tạo tiến sĩ là đề tài luận án và sản phẩm công bố khoa học. Dù là nghiên cứu cơ bản hay ứng dụng thì Luận án cũng phải có tính mới và có giá trị. Sản phẩm nghiên cứu phải được công bố trên các tạp chí uy tín, nghĩa là phải được giới chuyên môn phản biện, kiểm duyệt kĩ lưỡng để sản phẩm ấy trở thành tri thức.
Thực tế, để đào tạo tiến sĩ có chất lượng thì trước hết phải kể đến là thái độ của nghiên cứu sinh.
Phó giáo sư Võ Văn Minh - Chủ tịch Hội đồng trường Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng (ảnh: NVCC)
Khi nghiên cứu sinh xác định rõ mục tiêu là rèn luyện để trở thành người nghiên cứu độc lập, thì việc chọn thầy hướng dẫn, chọn đề tài nghiên cứu sẽ phù hợp với năng lực, sở trường của mình; quá trình nghiên cứu suôn sẻ và chắc chắn sẽ thành công. Thứ hai, phải kể đến là người hướng dẫn. Người hướng dẫn nghiên cứu sinh là nhà khoa học uy tín, có trách nhiệm sẽ định hướng, cố vấn khoa học tốt cho nghiên cứu sinh. Thứ ba, cơ sở đào tạo có đủ tiềm lực và uy tín, việc tuyển sinh, tổ chức đào tạo và đánh giá nghiên cứu sinh khách quan, nghiêm túc.
Tóm lại, yếu tố mấu chốt quyết định đến chất lượng đào tạo tiến sĩ vẫn là con người, hay nói đúng hơn là ý thức trách nhiệm của các bên liên quan.
Các thảo luận thời gian gần đây nói nhiều về việc hướng tới các chuẩn mực quốc tế như một cách để bảo đảm chất lượng đào tạo tiến sĩ trong nước. Vậy qua nghiên cứu Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ mới nhất mà Bộ Giáo dục và Đào tạo công bố ông thấy chuẩn mực đó đã "đúng, trúng" chưa?
Phó giáo sư Võ Văn Minh: Thoạt đầu nhìn vào Thông tư 18/2021/TT-BGDĐT người ta có cảm nhận chung là có sự "nới lỏng" so với Thông tư 08/2017/ TT-BGDĐT, tức là ở chỗ quy định về công bố quốc tế. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kĩ thì cũng có "nới" nhưng không hẳn "lỏng".
Theo Thông tư 08/2017 TT-BGDĐT, yêu cầu " công bố tối thiểu 02 bài báo về kết quả nghiên cứu của luận án trong đó có 01 bài đăng trên tạp chí khoa học thuộc danh mục các tạp chí ISI-Scopus hoặc đã công bố tối thiểu 02 báo cáo bằng tiếng nước ngoài trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện hoặc 02 bài báo đăng trên tạp chí khoa học nước ngoài có phản biện ". Vế thứ nhất, có 01 bài đăng trên tạp chí khoa học thuộc danh mục các tạp chí ISI-Scopus, được xem là chuẩn; nhưng không quy định chặt đối với bài thứ 2. Vế thứ 2 thì không phải "chặt": " Công bố tối thiểu 02 báo cáo bằng tiếng nước ngoài trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện" thì cũng "thượng vàng hạ cám" và chưa chắc có chất lượng.
Trong khi theo Thông tư 18/2021/TT-BGDĐT, yêu cầu "là tác giả chính của báo cáo hội nghị khoa học, bài báo khoa học được công bố trong các ấn phẩm thuộc danh mục WoS/Scopus, hoặc chương sách tham khảo do các nhà xuất bản quốc tế có uy tín phát hành, hoặc bài báo đăng trên các tạp chí khoa học trong nước được Hội đồng Giáo sư nhà nước quy định khung điểm đánh giá tới 0,75 điểm trở lên theo ngành đào tạo, hoặc sách chuyên khảo do các nhà xuất bản có uy tín trong nước và quốc tế phát hành; các công bố phải đạt tổng điểm từ 2,0 điểm trở lên tính theo điểm tối đa do Hội đồng Giáo sư nhà nước quy định cho mỗi loại công trình (không chia điểm khi có đồng tác giả), có liên quan và đóng góp quan trọng cho kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án" .
Với Quy chế mới này, cơ bản đã lượng hoá về chất (tối thiểu 2,0 điểm chứ không phải tối thiểu 2,0 bài). Với quy định này, vừa đảm báo tính "mở", vừa tạo điều kiện cho các Tạp chí uy tín trong nước phát triển, nhưng đồng thời cũng gắn với bảo đảm chất lượng. Vì tối thiểu 2,0 điểm công trình và ở các Tạp chí được tính điểm 0,75 trở lên, cơ bản cũng đã hơn trước đây, nếu như nghiên cứu sinh không có bài trên WoS/ Scopus.
Có lẽ, quy định không ép buộc phải có công bố quốc tế như Thông tư 08/2017 sẽ khiến cho một số người lo ngại về tính "cả nể" khi đánh giá các bài báo trong nước. Tuy nhiên, theo tôi, trong bối cảnh hiện nay, Thông tư 18/2021 quy định như vậy là phù hợp với Luật 34/2018/QH14. Nghĩa là đã giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và giải trình cho nhà trường. Yêu cầu về công khai thông tin cũng là cách để xã hội giám sát. Các trường đại học đến lúc phải có trách nhiệm quyết định về chất lượng đào tạo và uy tín học hiệu.
Hiện nay, dù không ép buộc phải công bố quốc tế nhưng rất nhiều khoa, ngành và thầy hướng dẫn vẫn hướng nghiên cứu sinh công bố ở các tạp chí quốc tế uy tín. Vì đã xác định đúng mục tiêu đào tạo tiến sĩ thì chắc chắn sẽ lựa chọn đúng xu hướng phát triển và chất lượng chứ không chạy theo là số lượng và tấm bằng.
Tuy nhiên, việc xã hội lo lắng về chất lượng đào tạo tiến sĩ khi bỏ yêu cầu về công bố quốc tế các bên liên quan cũng cần lưu tâm. Theo tôi, dù "nới" hay "thắt" ở quy định về công bố quốc tế, thì Bộ Giáo dục và Đào tạo với tư cách là cơ quan quản lí nhà nước của ngành cần phải thực hiện giám sát chặt chẽ và Chính phủ cũng cần quan tâm đầu tư phát triển các Tạp chí khoa học trong nước tiệm cận chuẩn mực quốc tế. Như vậy mới thực sự "đúng và trúng"!
Trong bối cảnh như hiện nay, giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ của trường Đại học sư phạm - Đại học Đà Nẵng đã và đang, sẽ chú trọng những vấn đề gì thưa ông?
Phó giáo sư Võ Văn Minh: Trong hơn 10 năm qua, Đại học Đà Nẵng nói chung và Trường Đại học Sư phạm nói riêng kiên trì mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo, xem đây là mục tiêu sống còn của trường đại học trong bối cảnh hội nhập. Giải pháp đột phá và then chốt vẫn là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Cụ thể là duy trì chính sách cho giảng viên trẻ đi học tiến sĩ ở các nước phát triển. Đến nay, đội ngũ được đào tạo bài bản này đã trở thành nguồn nhân lực chính trong toàn Đại học Đà Nẵng. Do vậy, số lượng công bố trên các tạp chí quốc tế uy tín tăng nhanh trong những năm gần đây.
Chất lượng đào tạo tiến sĩ là sự kết hợp của nhiều yếu tố, trong đó tiếp cận chuẩn quốc tế là mục tiêu trước mắt và lâu dài (ảnh: Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng)
Mặt khác, chủ trương phát triển các nhóm nghiên cứu giảng dạy (Teaching Research Team - TRT) cũng là chính sách đặc thù mà Đại học Đà Nẵng đã duy trì và phát triển. Đây là cách kết nối nguồn lực trong Đại học đa ngành nhằm nghiên cứu, đào tạo giải quyết những vấn đề liên ngành, trong đó có đào tạo tiến sĩ.
Riêng tại trường Đại học Sư phạm, hiện nay có 14 TRT phủ đều tất cả các lĩnh vực khoa học và nhất là đã liên kết được các lĩnh vực khoa học với nhau. Số lượng công bố khoa học trên các tạp chí WoS/ Scopus hằng năm tăng từ 1,5-2 lần.
Tạp chí Khoa học, Xã hội, Nhân văn và Giáo dục của Trường đã được đầu tư phát triển và gia nhập rất nhiều cơ sở dữ liệu quốc tế. Phòng thí nghiệm, phòng chuyên đề, Trung tâm học liệu được đầu tư hiện đại,... Đặc biệt, các đề tài nghiên cứu khoa học các cấp của giảng viên, yêu cầu công bố quốc tế ở các tạp chí Q1, Q2 cũng như bắt buộc phải hỗ trợ NCS và thạc sĩ. Chúng tôi xác định đào tạo tiến sĩ là trách nhiệm và vinh dự của nhà trường. Chất lượng đào tạo tiến sĩ là sự kết hợp của nhiều yếu tố, trong đó tiếp cận chuẩn quốc tế là mục tiêu trước mắt và lâu dài.
Trân trọng cảm ơn ông.
Những điểm thay đổi đáng chú ý của Thông tư 18/2021 so với Thông tư 08/2017
Thứ nhất, theo Quy chế cũ, nghiên cứu sinh cần công bố tối thiểu 02 bài báo về kết quả nghiên cứu của luận án, trong đó có 01 bài đăng trên tạp chí khoa học thuộc danh mục các tạp chí ISI-Scopus, hoặc đã công bố tối thiểu 02 báo cáo bằng tiếng nước ngoài trong kỷ yếu hội thảo quốc tế có phản biện hoặc 02 bài báo đăng trên tạp chí khoa học nước ngoài có phản biện.
Theo Quy chế mới, các bài báo, báo cáo khoa học xuất bản trong danh mục WoS/Scopus vẫn là yêu cầu để minh chứng cho kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu khoa học của nghiên cứu sinh. Tuy nhiên, Quy chế mới bổ sung việc chấp nhận các sách chuyên khảo, các công bố tại các tạp chí trong nước có chất lượng tốt theo khung tiêu chuẩn đánh giá của Hội đồng Giáo sư Nhà nước (0,75 điểm trở lên). Cách tính điểm sẽ căn cứ khung điểm tối đa của Hội đồng Giáo sư Nhà nước quy định, với tổng điểm đối với người đủ điều kiện hướng dẫn nghiên cứu sinh là 4,0 và đối với đầu ra của nghiên cứu sinh là 2,0.
Thứ hai, Quy chế mới bổ sung minh chứng về trình độ ngoại ngữ, theo đó minh chứng sử dụng các chứng chỉ quốc gia theo khung ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam bên cạnh những chứng chỉ được quốc tế công nhận như IELTS, TOEFL theo quy định trước đây.
Thứ ba, Quy chế mới điều chỉnh tăng số lượng nghiên cứu sinh được hướng dẫn trong cùng một thời gian cụ thể, giáo sư được hướng dẫn độc lập tối đa 7 nghiên cứu sinh; phó giáo sư hoặc tiến sĩ khoa học được hướng dẫn độc lập tối đa 5 nghiên cứu sinh; tiến sĩ được hướng dẫn độc lập tối đa 3 nghiên cứu sinh. Trường hợp đồng hướng dẫn 1 nghiên cứu sinh được tính quy đổi tương đương hướng dẫn độc lập 0,5 nghiên cứu sinh. Theo quy định trước đây, số nghiên cứu sinh tối đa hướng dẫn tương ứng là 5, 4 và 3.
Thứ tư, thời gian đào tạo tiến sĩ cũng được thay đổi so với trước để đáp ứng yêu cầu đào tạo của thực tiễn. Theo đó, tổng thời gian đào tạo tiêu chuẩn là từ 3 - 4 năm. Tổng thời gian học tập nghiên cứu trước khi trình hồ sơ thực hiện quy trình phản biện độc lập và bảo vệ cấp cơ sở là 6 năm. Thời hạn để hoàn thiện các thủ tục bảo vệ luận án ở cơ sở sau thời gian này là từ 6 tháng đến 1 năm tùy tình hình thực tế do cơ sở đào tạo quyết định.
Theo Quy chế trước đây, nghiên cứu sinh không có khả năng hoàn thành chương trình đào tạo đúng hạn chỉ được xin gia hạn học tập không quá 24 tháng. Nếu hết thời gian gia hạn luận án của nghiên cứu sinh không được thông qua, kết quả học tập sẽ không được bảo lưu.
Thứ năm, phản biện độc lập đối với luận án có thể tiến hành 2 lần, tăng so với 1 lần so với quy định trước đây, nhằm đảm bảo nghiên cứu sinh và người đánh giá có cơ hội giải trình hoặc bảo lưu quan điểm trong nghiên cứu của mình.
Hiệu phó ĐH Bách khoa Hà Nội nói về 'chuẩn' đào tạo tiến sĩ mới của Việt Nam PGS.TS Nguyễn Phong Điền, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Bách khoa Hà Nội cho rằng, nên khuyến khích người làm nghiên cứu, trong đó có tiến sĩ, công bố khoa học trên các tạp chí uy tín trong nước. PV: Ông đánh giá thế nào về hoạt động đào tạo cũng như chất lượng của nghiên cứu sinh (NCS) ở ĐH Bách khoa...