Nhà giáo nhân dân Dương Thanh Liêm qua đời
Người được nhiều thế hệ sinh viên xem là tấm gương về thanh liêm, chính trực đã từ trần tối 1/12 tại TP HCM, hưởng thọ 81 tuổi.
PGS Dương Thanh Liêm, nguyên Hiệu trưởng Đại học Nông Lâm TP HCM, là chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực chăn nuôi, thú y.
PGS Dương Thanh Liêm. Ảnh: Đại học Nông Lâm TP HCM.
Sinh năm 1938 tại huyện Giồng Trôm (Bến Tre), 17 tuổi ông Liêm tập kết ra Bắc và học trường Học sinh miền Nam trước khi vào Đại học Nông nghiệp 1 Hà Nội. Ông là sinh viên giỏi toàn diện, luôn đạt điểm tuyệt đối tất cả các môn và ra trường với vị trí thủ khoa.
Ông Liêm được cử sang nghiên cứu sinh tại Hungary với đề tài về thức ăn cho gà công nghiệp. Năm 1974, ông bảo vệ thành công luận án Phó tiến sĩ tại Hungary rồi về công tác tại Đại học Nông Lâm TP HCM. Ông được phân công làm hiệu trưởng từ năm 1994 đến 1998, được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân năm 2004.
PGS Liêm là tác giả của nhiều công trình, đề tài có giá trị khoa học và thực tiễn cao như Hợp chất iôt hữu cơ kích thích gia súc tiết sữa, gia cầm đẻ trứng; Nuôi dê sữa theo lối công nghiệp; Bột cỏ làm thức ăn hỗn hợp cho gia súc, gia cầm…
Trong cuộc sống cá nhân, ông có nhiều thăng trầm. Chỉ ba tháng sau khi hạ sinh con trai đầu lòng, vợ ông phát bệnh nặng. Sau giờ lên lớp, ông tất tả về lo chợ búa, nấu cơm, chăm sóc con nhỏ và thuốc thang cho vợ. Năm 1990, con trai duy nhất 13 tuổi của ông tử vong do đuối nước ở hồ cạnh trường học.
Với nhiều thế hệ sinh viên và giảng viên Đại học Nông Lâm, thầy Liêm là tấm gương về thanh liêm chính trực, sống hết lòng vì người khác. Hình ảnh ông đọng lại trong họ là người thầy chạy xe máy cà tàng đến trường suốt mấy chục năm.
Video đang HOT
TS Trần Đình Lý (Trưởng phòng Đào tạo Đại học Nông Lâm TP HCM) có nhiều năm làm việc bên PGS Liêm kể, thầy Liêm luôn nghĩ và lo cho người khác. Bao thế hệ sinh viên rất ngưỡng mộ thầy về lòng nhân ái, tâm, tài và đức của ông. “Thầy chưa bao giờ được thanh thản, nhưng ai cũng mong thầy được thanh thản ra đi lần này”, ông Lý chia sẻ.
Mạnh Tùng
Theo VNE
Nguyễn Công Trứ - vị quan 'ngông' dưới ba đời vua
Tác giả "Bài ca ngất ngưởng" có quãng đời làm quan nhiều thăng trầm, là nhà thơ nổi bật của nền văn học nửa đầu thế kỷ 19.
Nguyễn Công Trứ (1778-1858), tự là Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu là Hi Văn, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Theo một số tài liệu, ông sinh ra ở Quỳnh Côi, Quỳnh Phụ (Thái Bình), đến năm 10 tuổi mới theo gia đình về quê cha ở Hà Tĩnh.
Năm 2018 là chẵn 240 năm ngày sinh và 160 năm mất Nguyễn Công Trứ. Nhân dịp này, một số hoạt động được tổ chức để tưởng nhớ ông, gần nhất là hội thảo "Nguyễn Công Trứ với lịch sử, văn hóa Việt Nam nửa đầu thể kỷ XIX" được tỉnh Hà Tĩnh phối hợp với Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức vào ngày 24/11.
Đỗ Giải nguyên ở tuổi 41, con đường làm quan nhiều thăng trầm
Từ nhỏ, Nguyễn Công Trứ đã sống trong cảnh nghèo khó nhưng luôn nuôi ý tưởng giúp đời, lập công danh, sự nghiệp. Mãi đến năm 1819, khi đã 41 tuổi, Nguyễn Công Trứ mới thi đỗ Giải nguyên và được bổ làm quan. Theo Danh nhân Việt Nam, ông làm quan ở các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, nổi tiếng là thanh liêm, chính trực, tài trí hơn người.
Ông bắt đầu sự nghiệp làm quan với chức Hành tẩu Sử quán rồi dần lên tới các chức thượng thư, tổng đốc vì những thành tích trong quân sự và kinh tế. Thế nhưng, cũng nhiều lần, Nguyễn Công Trứ bị giáng phạt, thậm chí giáng liền ba bốn cấp, có lần bị phạt đi làm binh ở miền ven biên giới Quảng Ngãi.
Năm thứ 11 thời vua Minh Mạng, Nguyễn Công Trứ "được thụ Hữu Tham tri bộ Công, tạm giữ ấn triện bộ Hình, bỗng lại giáng làm Hữu thị lang, sung làm công việc Nội các. Lại nhân việc bị tội giáng bổ kinh huyện, rồi thăng lang trung phủ Nội vụ". Có thể thấy, chỉ trong một năm, ông đã thăng giáng chức nhiều lần.
Năm 1847, ở tuổi 70, Nguyễn Công Trứ xin về hưu nhưng vua Thiệu Trị không cho. Đến năm 1848, dưới thời vua Tự Đức, ông mới được về hưu hẳn. Thế nhưng, đến năm Mậu Ngọ (1858), khi thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, tuy đã 80 tuổi, ông vẫn tha thiết xin vua Tự Đức được tòng quân đi đánh giặc. Nhưng thấy ông tuổi già sức yếu, vua đã không chuẩn y.
Tranh vẽ Nguyễn Công Trứ. Ảnh: Báo Hà Tĩnh
Lập ra hai huyện Tiền Hải và Kim Sơn
Nguyễn Công Trứ nhận thấy nhu cầu bức thiết của dân nghèo là cần có ruộng đất để sinh nhai đồng thời quan sát thấy nhiều nơi ruộng đất mênh mông lại hoang hóa, ông dâng sớ trình bày về việc cần vỡ ruộng hoang.
Bản sớ có đoạn "Ngày nay những dân nghèo túng, ăn dưng chơi không, khi cùng thì họp nhau trộm cướp, cái tệ không ngăn cấm được. Trước thần đến Nam Định thấy ruộng bỏ hoang ở các huyện Giao Thủy, Chân Định mênh mông bát ngát. Ngoài ra còn không biết mấy nghìn trăm mẫu hỏi ra thì dân địa phương muốn khai khẩn nhưng phí tốn nhiều, không đủ sức làm. Nếu cấp cho tiền công thì có thể nhóm họp dân nghèo mà khai khẩn, nhà nước phí tốn không mấy mà mối lợi tự nhiên sẽ đến vô cùng", Đại Nam thực lục viết lại.
Trong bản sớ, ông cũng nói rằng phàm đất hoang có thể khai khẩn được, cho những người địa phương giàu có chia nhau trông coi công làm, chiêu mộ những dân nghèo các hạt đến khai khẩn, rồi cấp cho tiền công để làm cửa nhà, mua trâu bò nông cụ, cấp tiền gạo lương tháng trong hạn 6 tháng. Ngoài mức chu cấp ấy, người dân làm lấy mà ăn, 3 năm thành ruộng, đến chiếu lệ tư điền thì đánh thuế.
Đầu năm 1828, vua Minh Mạng lệnh cho Nguyễn Công Trứ giữ chức Dinh điền sứ. Đến Tiền Châu (Nam Định), Nguyễn Công Trứ nhanh chóng bắt tay vào việc khai hoang. Tháng 10, ông đã thành lập một huyện mới có tên là Tiền Hải thuộc phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định. Sau khi thành công, nhận thấy ở các huyện Yên Khánh, Yên Mô thuộc Ninh Bình một dải bãi biển còn nhiều đất hoang rậm, ông xin đến đo đạc. Đến tháng 3/1829, ông bắt đầu đặt huyện Kim Sơn.
Ngoài việc khai khẩn đất đai, Nguyễn Công Trứ còn có công làm yên những cuộc khởi nghĩa nông dân của Phan Bá Vành ở Nam Định, của Nùng Văn Vân ở Tuyên Quang... Ông chăm lo cho cuộc sống đói nghèo của nông dân, đề nghị "đặt nhà học" cho con em nhân dân, "đặt xã thương" ở các làng để quản lý thóc gạo và rất nhiều công việc khác nhằm đảm bảo cuộc sống cho dân.
'Bài ca ngất ngưởng' và những vần thơ ngông để đời
Không chỉ là nhà quân sự, nhà khẩn hoang, Nguyễn Công Trứ còn là nhà thơ nổi bật trong nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ 19. Ông có tài, lại là người của hành động. Trải qua nhiều thăng trầm, Nguyễn Công Trứ hiểu sâu sắc nhân tình thế thái đương thời. Ông đưa những suy ngẫm của mình vào thơ ca, thể hiện khí phách ngang tàng, tài hoa.
Thơ ca của Nguyễn Công Trứ xoay quanh các chủ đề như chí nam nhi, cảnh nghèo và thế thái nhân tình hay triết lý hưởng lạc. Có những câu thơ mà chỉ cần nhắc tới là người đời nghĩ ngay tới ông như "Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông", hay "Trời đất cho ta một cái tài/ Giắt lưng dành để tháng ngày chơi".
Là người đào hoa, Nguyễn Công Trứ cũng có nhiều vần thơ, lời ca về thế thái nhân tình như " Thế thái nhân tình gớm chết thay/ Lạt nồng trông chiếc túi vơi đầy/ Hễ không điều lợi không thành dại/ Đã có đồng tiền dở cũng hay". Hay trong bài "Bỡn nhân tình", ông viết "Tau ở nhà tau, tau nhớ mi/ Nhớ mi nên phải bước chân đi/ Không đi mi nói: răng không đến?/ Đến thì mi nói: đến làm chi".
Nổi tiếng bậc nhất trong các áng thơ ca của Nguyễn Công Trứ có thể kể đến "Bài ca ngất ngưởng" - tác phẩm được đưa vào chương trình Ngữ văn THPT. Bài thơ thể hiện cuộc đời làm quan thăng trầm của ông, đồng thời cho thấy sự ngất ngưởng, cái ngông của bậc dũng tướng.
"Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
...
Nghĩa vua tôi cho trọn vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông"!
Dương Tâm
Theo VNE
Đại tá - Giáo sư Lê Gia Vinh, người Thầy đáng kính Không chỉ giỏi chuyên môn y khoa, Đại tá - Giáo sư Lê Gia Vinh còn là hình mẫu về một Nhà giáo Nhân dân đáng kính. Kết tinh sự thông tuệ và nhân văn trong con người ông mang đến sự kính yêu của các thế hệ học trò và những bậc tiền nhân trong ngành Y. Ông cha ta thường nói...