Nhà bác học của nông dân
Khi cuộc kháng chiến của dân tộc còn đang gian nan, ông đã tìm các mối liên lạc để về nước. Tháng 9/1952, GS Lương Định Của trở về Việt Nam.
Nhiều năm sau khi về nước theo lời kêu gọi của dân tộc, của Hồ Chủ tịch, bác s ĩLương Định Của tâm sự với một người bạn thân: “Anh có biết vinh dự lớn nhất của đời tôi là gì không? Ấy là ngày tôi được cấp bằng bác sĩ nông học (tại Nhật) trùng với kỷ niệm ngày sinh Bác Hồ: 19/5/1951. Một sự trùng hợp vô cùng lý thú”.
Nổi tiếng nơi xứ người
Cha mẹ mất lúc Lương Định Của mới 12 tuổi. Hồi nhỏ học Trường tiểu học Taberd ở thị xã Sóc Trăng, rồi chuyển lên Sài Gòn học trung học cũng tại Trường Taberd, đến năm thứ tư, Lương Định Của sang Hồng Kông học tiếp tại Trường La Salle College. Sau khi trúng tuyển đại học (ĐH), ông lên học tại ĐH Saint John’s ở Thượng Hải trong lúc chiến tranh thế giới lan rộng và ngày càng ác liệt.
Ông chuyển sang du học ở Nhật. Lương Định Của chọn học ngành nông nghiệp tại ĐH Tổng hợp Kyushu với hoài bão mang kiến thức về phục vụ đất nước.
Năm 1945, Nhật Bản thua trận. Để có thể tiếp tục theo học, Lương Định Của đã phải lăn lộn làm đủ nghề: gia sư, biên dịch tài liệu, phiên dịch tiếng Anh… Cô gái Nobuko Nakamura ở cố đô Kyoto đã đem lòng yêu ông, họ làm đám cưới trong năm 1945.
Năm 1947, Lương Định Của tốt nghiệp ĐH Tổng hợp Kyushu. Ông xin vào phụ việc ở ĐH Tổng hợp Kyoto, tình nguyện không lương để được phép đọc sách ở thư viện và nghiên cứu, thực nghiệm một số giờ tại phòng thí nghiệm của nhà trường.
Nghe theo lời khuyên của BS Đặng Văn Ngữ, đã thành danh và về nước trước đó (1949), Lương Định Của ở lại Nhật thêm một thời gian để làm dày thêm tri thức. Mùa hè năm 1951, Lương Định Của bảo vệ xuất sắc luận án di truyền học với đề tài: “Cách xử lý đa bội thể di truyền nhằm tạo nên giống lúa mới”. Hội đồng khoa học ĐH Tổng hợp Kyoto nhận xét Lương Định Của đã có cống hiến lớn cho nền nông học trong việc cải thiện giống lúa và nhất trí cấp học vị Bác sĩ nông học cho ông (ở Nhật học vị Bác sĩ là cao nhất).
Sau này có người không hiểu, định sửa thành Tiến sĩ đã bị ông phản đối. Lương Định Của là người trẻ nhất khi nhận học vị, cũng là người ngoại quốc duy nhất được cấp bằng Bác sĩ nông học tại Nhật Bản cho đến lúc bấy giờ. Mấy tháng sau,Lương Định Của được Bộ Giáo dục Nhật Bản bổ nhiệm làm giảng sư ĐH Kyoto. Ông lại là người ngoại quốc duy nhất thời ấy được bổ nhiệm làm giảng sư chính thức ở một trường ĐH quốc lập của Nhật.
Tổ quốc là trên hết
Khi cuộc kháng chiến của dân tộc còn đang gian nan, ông đã tìm các mối liên lạc để về nước. Tháng 9/1952, GS Lương Định Của trở về Việt Nam.
Sau một hành trình khó khăn, khi về đến Sài Gòn, GS Lương Định Của từ chối chức Thứ trưởng Bộ Canh nông của chính phủ Bảo Đại. Ông làm việc một thời gian ngắn tại Viện Khảo cứu nông nghiệp. Sau khi Hiệp định Genève được ký, liên lạc được với cách mạng, ông xin cho cả gia đình đi tập kết và ra đến Hà Nội vào ngày cuối cùng của năm 1954.
Ông đã nghe theo tiếng gọi của dân tộc, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh bỏ vinh hoa phú quý về với đất nước còn nghèo để giúp bà con nông dân.
Video đang HOT
Kể từ đó, nhà trí thức lớn dành hết cả phần đời còn lại lăn lộn trên ruộng đồng, dưới bom đạn để tạo ra các giống lúa mới giúp hậu phương miền Bắc đạt năng suất (thời đó là) “huyền thoại” 5 tấn/ha, góp phần đảm bảo lương thực cho cuộc kháng chiến vĩ đại của cả dân tộc. Các giống “lúa Lương Định Của”: nông nghiệp 1 (NN1), lúa chiêm 314, NN75-1, NN8-388, lúa mùa Saisubao, lúa xuân sớm NN75-5, các giống dưa lê, cà chua, khoai lang, dưa hấu không hạt, chuối, rau, táo… do ông tạo nên rất nổi tiếng ở miền Bắc.
Ông còn dạy bà con nông dân những kỹ thuật tiên tiến để thâm canh lúa, cấy “nông tay thẳng hàng”, “đảm bảo mật độ”… Những kỹ thuật đơn giản mà phù hợp được ông mang về và đã được hàng triệu nông dân miền Bắc áp dụng thành công. Điều đáng nói là những kỹ thuật tiên tiến đó thắng thế khi những khẩu hiệu tuyên truyền về “đại nhảy vọt” phi khoa học, phi thực tiễn vẫn vang lên trong đầu nhiều cán bộ lãnh đạo và quần chúng đây đó vẫn được huy động (cố) làm theo.
Nông dân gọi ông là “bác Của” theo cách thân mật dân dã của người trong nhà chứ không phải vì ông là “bác sĩ”. Họ cũng gọi những thành tựu khoa học của ông một cách đơn giản và thân mật như vậy: “lúa ông Của”, “khoai ông Của”, “dưa lê ông Của”…
Khi GS Lương Định Của về làm việc ở Viện Cây lương thực và thực phẩm, “bà Của” cũng theo về giúp ông. Sau này bà Nobuko Nakamura mới về làm việc ở Ban tiếng Nhật Đài tiếng nói Việt Nam. Như mọi gia đình cán bộ lúc đó, cả nhà GS cũng vất vả ly tán vì nhiệm vụ thời chiến: Ông làm việc ở Hải Dương, các con gửi vào trường học sinh miền Nam, bà sơ tán theo đài về gần chùa Thầy, Quốc Oai. Nhiều vất vả nhưng chưa bao giờ có ai được nghe từ vị GS một lời phàn nàn về cuộc sống khó khăn. Ông chỉ có một băn khoăn là không đủ tiền đặt mua tạp chí khoa học nước ngoài. Căn nhà tuềnh toàng của ông không lắp điện thoại nên đã làm nhiều học trò ông day dứt vì không kịp đưa thầy đến bệnh viện khi gặp cơn nhồi máu cơ tim đột ngột ngày 28/12/1975.
Ở Hà Nội, đường phố mang tên Lương Định Của chạy qua ngôi nhà cũ của ông. Ở TP.HCM, ngôi nhà “bà Của” và người con trai đang ở cũng trên đường phố mang tên ông. Đây là một trùng hợp thú vị khác.
GS Lương Định Của và các con
GS Lương Định Của và vợ
Bác sĩ nông học Lương Định Của (16/8/1920 – 28/12/1975) sinh tại làng Đại Ngãi, huyện Kế Sách, Sóc Trăng. Năm 1937, ông du học ở Hồng Kông rồi học di truyền học ở Nhật. Năm 1951, ông bảo vệ xuất sắc luận án Bác sĩ nông học tại Nhật. Ông đã có nhiều đóng góp cho nền nông nghiệp Việt Nam. Từ 1967 – 1985 ông là Viện trưởng Viện Cây lương thực và thực phẩm. Ông đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động (1967), được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học công nghệ đợt 1 năm 1996.
Theo Thanh Niên
Đề án GD nghìn tỷ: Chương trình không mới, tiền đầu tư thì gấp đôi!
"Những nội dung đổi mới của đề án chỉ là những nội dung cũ và cũng được làm theo cách cũ nên chắc chắn không thể đổi mới được. Tôi chỉ thấy điểm mới là số tiền tiêu tốn lần này là mới, vì nó sẽ... gấp đôi lần trước!".
Một chương trình thống nhất, có nhiều bộ SGK?
Một trong những định hướng căn bản trong dự thảo đề án là sẽ tiếp tục duy trì mô hình một chương trinh, một bộ SGK. Cụ thể, dự thảo nêu rõ: "Chương trình bảo đảm sự thống nhất về chuẩn kiến thức và kỹ năng, có phương án vận dụng chương trình, SGK phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của các địa bàn khác nhau". Chương trình với một chuẩn kiến thức nhưng được vận dụng phù hợp với từng vùng miền đã được triển khai hiện hành chứ không phải lần này mới được đổi mới.
Mỗi một quyển SGK có một cấu trúc, cách trình bầy theo tư duy nhất quán. Số lượng các bộ SGK khác nhau, nhưng không phải là vô hạn? Về mặt khoa học, hai người khác nhau chưa hẳn viết được hai cuốn SGK khác nhau.
Ví dụ, ở Nga, một chương trình thống nhất, về Sinh học chỉ có 3 bộ SGK khác nhau: 1 bộ SGK viết theo kiểu mô tả, 1bộ SGK viết theo tiến trình thực nghiệm, còn 1 bộ SGK viết theo nguyên tắc từ đơn giản đến phức tạp.
Khi còn chế độ thi cử quốc gia, cần có một bộ SGK chính thức của Nhà nước (phổ thông, có chất lượng, và chuẩn mực quốc tế). Chữ phổ thông - đã quy định: kiến thức phổ thông, cách trình bầy phổ thông, dễ học dễ nhớ.
Có ý kiến cho rằng: "Ai muốn viết SGK cũng được, miễn là Bộ công nhận sử dụng trong trường là đuợc! Chắc mọi nguời còn nhớ phong trào "toàn dân nấu thép, nhưng kết quả ta chỉ thu được gang" vào cuối những năm năm mươi thế kỷ trước.
Đề án khẳng định chương trình mới sẽ được xây dựng theo hướng tiếp cận năng lực của người học. So sánh những nội dung này với mục tiêu đổi mới của 10 năm trước đây không có gì khác. Tại các văn bản về đổi mới chương trình GD phổ thông lần trước (triển khai từ năm 2002 đến nay), Bộ GD-ĐT đã đề cập: "Mục tiêu của việc đổi mới CT và SGK THPT là nâng cao chất lượng GD toàn diện...; đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự học của học sinh...".
"Những nội dung đổi mới của đề án chỉ là những nội dung cũ và cũng được làm theo cách cũ nên chắc chắn không thể đổi mới được".
Bộ GD-ĐT có trách nhiệm tổ chức, xây dựng và ban hành chương trình; tổ chức biên soạn, quyết định chọn SGK để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở các cơ sở GD phổ thông trên cơ sở thẩm định của Hội đồng quốc gia. Như vậy, nơi được gửi gắm vẫn là Bộ Giáo duc - Đào tọa và Nhà xuất bản Quốc gia. Trong khi đáng lẽ ra, người chịu trách nhiệm về việc in ấn, cải cách SGK phải là ở cấp cao hơn, như chúng ta lần đầu tiên chúng ta làm SGK.
Tôi chỉ thấy điểm mới là số tiền tiêu tốn lần này là mới, vì nó sẽ... gấp đôi lần trước!".
Tại sao chưa có chương trình và sách giáo khoa chuẩn?
Trong giáo dục thế giới tồn tại một mặt bằng chung kiến thức, các HS học lớp 5 ở nuớc này có thể sang nước khác cũng học lớp 5 , hay HS tốt nghiệp phổ thông của nước mình vẫn vào các nước tiên tiến như Nga, Mỹ , Đức để học đại học. Điều đó khẳng định, chương trình giáo dục cơ bản phải giống nhau.
Việc đổi mới chương trình và biên soạn SGK ở nuớc ta chẳng giống ai, vẫn theo tư duy "du kích", có nguồn gốc từ văn hoá làng xã và cát cứ. Việc cắt khúc chương trình giáo dục cho nhiều nguời làm sách, triển khai theo kiểu cuốn chiếu, vừa chạy vừa xếp hàng, vô tình phá vỡ sự thống nhất trong dạy và học, lãng phí thời gian và của cải xã hội.
GS Nguyễn Xuân Hãn
Trên thế giới tồn tại CT-SGK Tú tài Quốc tế, được trên 70 nước chấp nhận là thành tựu của mình để sử dụng. Tại Việt Nam chương trình này đã được GS Hồ Ngọc Đại sử dụng rất tốt cho trường Quốc tế Hà Nội nhiều năm nay. Ông Đỗ Ngọc Thống khoe là "một trong những tác giả SGK viết nhiều nhất môn Ngữ Văn theo chương trình mới từ lớp 6 đến lớp 12". Vậy hẳn ông đã đuọc các tài liệu trên trước khi biên soạn? Mong ông sớm phát biểu những điểm giống nhau và khác nhau giữa các sản phẩm SGK của ông với CT-SGK của Tú Tài Quốc tế, và Hội Ngôn ngữ TP.HCM?
Xin thưa với ông, văn chương là món ăn tinh thần, tôi chả thấy ai "ví văn Nguyễn Tuân là loại cao sang với món thịt chó"!!! (Văn Nghệ Trẻ số 23 ngày 7-6-2003).
Việt Nam là bộ phận của nhân loại. Vậy đâu là cái chung từ kho tàng trí tuệ của nhân loại, đâu là cái riêng của dân tộc mình?
Ví dụ, Cuốn sách cơ sở hình học Euclide - nội dung đã chiếm già nửa chuong trình toán ở bậc phổ thông, được sử dụng ổn định 2.300 năm nay, là tài sản chung của nhân loại. Cuốn sách này trong giới khoa học được ví là Kinh thánh.
Nó có 4 điều "chẳng cần" là chẳng cần nghi ngờ, chẳng cần đắn đo suy nghĩ, chẳng cần thử, chẳng cần sửa đổi. Có 4 điều "không được" là muốn thoát ra mà không được, muốn bác bỏ mà không được, muốn giảm bớt mà không được, muốn xáo trộn trước sau mà không được.
Einstein đã nói: không nắm chắc được hình học Euclide sẽ không thể trở thành nhà khoa học. Vậy mà từ 1981 đến nay, cuốn Euclide được chia nhỏ theo kiểu "cắt khúc" cho nhiều người làm. Nhóm nọ không biết nhóm kia. Kết quả, định lý Thales đưa xuống phần Bài tập (Hình lớp 11, NXBGD năm 2000, trang 37 bài tập 6).Cách làm này liệu có được coi là khoa học. Liệu có đảo ngược trí tuệ của nhân loại?
Người ta nói biên soạn SGK, chứ không nói là sáng tác SGK.Chữ biên soạn - có nghĩa là thu thập tài liệu, sắp xếp, cấu trúc lại thành sách. Các tác giả, nhiều người rất giỏi, nhưng không được cung cấp đầy đủ các tài liệu tham khảo. Về mặt khoa học, khi nghiên cứu, mà không biết người khác đã làm gì, thì kết quả không thể gọi là thành phẩm khoa học. Về việc này, Uỷ ban VH-GD-TTN-NĐ của Quốc hội đã yêu cầu lãnh đạo Bộ GD-ĐT, mang sách đến so sánh và đối chiếu. Rất tiếc, chưa rõ lý do, mà hàng năm nay lãnh đạo Bộ chưa thấy mang sách sang.
So với các nước, chương trình giáo dục của ta nặng hơn từ 1 đến 3 năm. Sử dụng ngôn ngữ trừu tượng, xa với cuộc sống, thật khó cho học và dạy. Nếu chương trình giáo dục vẫn tiếp tục sử dụng, thật bất lợi cho các thế hệ tương lai.
GS Nguyễn Xuân Hãn
Theo GDVN
"Cách làm sách giáo khoa của Việt Nam sai từ gốc!" Nếu biết kế thừa kinh nghiệm trong - ngoài nước và thành tựu khoa học giáo dục hiện nay, tôi khẳng định trong vòng một năm, kinh phí khoảng 100 tỷ đồng, chương trình - sách giáo khoa chuẩn sẽ được hoàn thành, để ta có thể thay sách đồng bộ từ lớp 1 đến lớp 12 vào thời gian tới. LTS: Đề...