Nguy cơ đến từ trầm cảm
Theo các chuyên gia y tế, trầm cảm là một rối loạn tâm thần có thể chữa được nếu phát hiện sớm và điều trị kịp thời cùng với sự tuân thủ phác đồ điều trị từ phía người bệnh, gia đình.
Tuy nhiên, trên thế giới, hơn 2/3 số người bị trầm cảm không nhận ra mình có bệnh và không được điều trị. Điều này khiến quá trình điều trị gặp rất nhiều khó khăn.
Trong số này có dấu hiệu đặc trưng, chủ yếu (thần sắc, giảm ham thích so với trước đây, giảm năng lượng, dễ mệt mỏi).
Trầm cảm không phân biệt tuổi tác
Theo PGS. TS Trần Văn Cường, Chủ tịch Hội Tâm thần học Việt Nam, trầm cảm là một bệnh lý phức tạp với 13 thể. Nó dễ nhầm lẫn với sự buồn phiền thông thường. Các bằng chứng sinh học về bệnh này có thể được nhìn thấy qua quét não – phương pháp thể hiện các mức độ hoạt động bất thường.
Các hóa chất quan trọng trong não cũng thể hiện sự mất cân bằng ở những người trầm cảm. Trong đó có nhiều thể có biểu hiện giống chấn thương, nhiều thể giống bệnh nội khoa… nên nhiều khi rất khó phân biệt và cần phải hội chẩn nhiều lần mới biết rối loạn trầm cảm.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), số người mắc bệnh trầm cảm trên thế giới đang gia tăng tới con số hàng trăm triệu. Theo đó, có gần 298 triệu người mắc trầm cảm trong năm 2010 (chiếm 4,3% dân số toàn cầu). Một nghiên cứu mới đây ở Mỹ năm 2014 cũng cho thấy khoảng 17.600 người bị trầm cảm mỗi năm, nhưng có tới hơn 2/3 số người bị trầm cảm không nhận ra mình có bệnh và không được điều trị.
Video đang HOT
Theo WHO, từ năm 2020, trầm cảm là căn bệnh xếp thứ hai sau bệnh tim mạch về mức độ ảnh hưởng tới cuộc sống của loài người. Điều đáng báo động là có tới 48% những người trầm cảm có ý định tự sát và 24% những người có ý định tự sát được báo cáo là không nhận được sự hỗ trợ điều trị trước đó. Vì vậy, WHO đã lấy chủ đề của Ngày Sức khỏe thế giới năm 2017 (ngày 7/4) là “Phòng, chống trầm cảm”.
Ở Việt Nam, Viện trưởng Viện Sức khỏe tâm thần quốc gia Nguyễn Doãn Phương cho biết, hiện có khoảng 30% dân số có rối loạn tâm thần, trong đó tỷ lệ trầm cảm chiếm 25%. Riêng trong năm 2016, Viện Sức khỏe tâm thần quốc gia đã khám và điều trị cho gần 19.000 lượt bệnh nhân trầm cảm. Mỗi năm, số người tự tử do trầm cảm ở nước ta từ 36.000-40.000 người.
Các chuyên gia y tế cảnh báo: Trầm cảm – một căn bệnh không quá mới, cũng không quá cũ và không phân biệt tuổi tác, giới tính, chủng tộc, hay tình trạng kinh tế xã hội, tất cả mọi người đều có thể bị trầm cảm. Trầm cảm là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến nhất, dù biểu hiện của các triệu chứng có thể khác nhau.
Bệnh trầm cảm có thể xảy ra ở nhiều lứa tuổi, nhưng phổ biến nhất là độ tuổi từ 18-45. Đặc biệt, phụ nữ có nguy cơ mắc trầm cảm nhiều hơn nam giới 2 lần vì sự thay đổi hormon ở lứa tuổi dậy thì, trong chu kỳ kinh nguyệt, giai đoạn mang thai, bị sảy thai, giai đoạn mãn kinh… có thể làm tăng nguy cơ trầm cảm.
Căn bệnh này cũng ghi nhận tỷ lệ cao những người ly thân, ly dị, thất nghiệp, nét nhân cách dễ bị tổn thương như hay lo lắng, ít chia sẻ. Nguy cơ mắc trầm cảm cũng gia tăng với những người mắc các bệnh lý về thần kinh, tim mạch kèm theo như đột quỵ, Parkinson…
Điều trị lâu dài, phức tạp
Theo TS Nguyễn Doãn Phương, thực tế nhiều người chưa hiểu về hội chứng này. Nhiều trường hợp điều trị theo bệnh lý khác không khỏi mới đi khám tâm thần. Vì vậy phần lớn bệnh nhân trầm cảm thường chậm trễ trong việc phát hiện và điều trị đúng chuyên khoa. Quá trình điều trị gặp rất nhiều khó khăn do lâu, bệnh nhân và gia đinh người bệnh không tuân thủ phác đồ…
Đa số các trường hợp trầm cảm có khuynh hướng trở thành mạn tính và tái diễn cũng như phục hồi không hoàn toàn giữa các giai đoạn, vì điều trị trầm cảm cần phải kéo dài, nhưng nhiều bệnh nhân và gia đình người bệnh không tuân thủ phác đồ, bỏ điều trị giữa chừng khi tự thấy bệnh được cải thiện. Thực tế điều trị, hơn 50% bệnh nhân có nguy cơ cơn tái diễn sau cơn thứ nhất, tỷ lệ này tăng dần lên đến 70% sau cơn tái diễn thứ 2 và sau cơn tái diễn thứ 3 là 90%.
TS.BS Dương Minh Tâm -Trưởng phòng Điều trị bệnh nhân liên quan stress (Viện Sức khỏe tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai) cũng chia sẻ, những năm gần đây, các ca bệnh trầm cảm do stress rất nhiều. Tuy nhiên, có tới 30-50% số người bệnh không được phát hiện ở y tế cơ sở hoặc đa khoa vì ít được quan tâm đến triệu chứng cảm xúc, mà chủ yếu là sự than phiền về cơ thể, vì trầm cảm là yếu tố nguy cơ của một số bệnh lý tim mạch như suy tim, nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp…
Ngoài ra, do thiếu thông tin cũng như những định kiến và thiếu nhân lực dẫn đến tỷ lệ bệnh trầm cảm được điều trị đúng cách còn rất hạn chế, ở một số nước tỷ lệ này dừng lại ở con số khiêm tốn là 10%.
Theo các chuyên gia y tế, trầm cảm là một rối loạn tâm thần có thể chữa được, giúp người bệnh ổn định và hòa nhập với xã hội nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời cùng với sự tuân thủ phác đồ điều trị từ phía người bệnh, gia đình và cộng đồng.
Đặc biệt, điều trị bệnh trầm cảm thường liên quan đến sử dụng liệu pháp nói chuyện, vì vậy hãy nói chuyện với những người mà mình tin tưởng, điều đó có thể là bước đầu tiên hướng tới phục hồi sự suy thoái về tinh thần. Việc cân bằng giữa công việc và nghỉ ngơi là vô cùng quan trọng để giảm các nguy cơ phát sinh các rối loạn tâm lý liên quan tới stress, trong đó có trầm cảm.
Ngoài ra, cũng có thể áp dụng các biện pháp giảm stress tái tạo sức lao động có thể đơn giản là tập thể dục thể thao, tập yoga, gặp gỡ bạn bè, tập tĩnh tâm hoặc học một môn nghệ thuật mới (vẽ, âm nhạc)…
Dấu hiệu nhận biết bị trầm cảm
Cảm giác buồn chán, trống rỗng; Khó tập trung suy nghĩ, hay quên; Luôn cảm giác mệt mỏi, không muốn làm việc gì; Cảm giác mình có tội lỗi, vô dụng, không xứng đáng; Mất ngủ, hoặc ngủ quá nhiều; Hay cáu gắt, giận dữ; Giảm thích thú trong các hoạt động hoặc sở thích hàng ngày; Giảm cảm giác ngon miệng, sụt cân hoặc ăn quá nhiều; Nghĩ về cái chết, có ý tưởng hoặc hành vi tự sát; Ngoài ra, nhiều bệnh nhân trầm cảm còn có triệu chứng đau đầu, đau tức ngực, các rối loạn tiêu hóa…
Rối loạn tâm thần tuổi vị thành niên: Vấn đề đáng lo ngại
Trong những năm gần đây, số lượng trẻ đến khám ở Viện Sức khỏe tâm thần, Bệnh viện Bạch Mai ngày càng tăng.
ThS.BS Lê Công Thiện - Trưởng Phòng Tâm thần nhi và Trẻ vị thành niên cho biết: Theo các số liệu thống kê đánh giá hàng năm, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ của các trẻ đến khám tại viện vì các vấn đề liên quan đến trường học nhiều hơn so với trước đây. Có rất nhiều lý do dẫn đến vấn đề này, đầu tiên là áp lực học tập, thứ hai là tương tác giữa các giới trẻ bây giờ cũng khác so với thời xưa, thứ ba là những quan điểm, những mâu thuẫn trong cuộc sống, đặc biệt là trong gia đình và nhà trường cũng có sự thay đổi.
Vai trò của gia đình và nhà trường rất quan trọng trong việc phát triển của trẻ, đặc biệt là nhà trường. Khi có những vấn đề ở trường học mà các cháu cũng không thể chia sẻ, không kể lại với bố mẹ, do vậy với giáo viên, hay các cán bộ chuyên trách quản lý học sinh.
Thứ hai là về gia đình, các bậc phụ huynh nên lưu ý, khi mà các con về nhà rồi sẽ cần đánh giá về sự thay đổi về mặt tâm lý, lối sống, thói quen và sở thích của con. Đấy cũng là một trong các yếu tố để mình phát hiện dấu hiệu sớm của bệnh. Các vấn đề phổ biến hay gặp như lo âu, trầm cảm, rối loạn phát triển như tăng động, tự kỷ là những vấn đề thường gặp ở lứa tuổi trẻ em vị thành niên hay kể cả lứa tuổi trẻ em thấp hơn.
Nếu không được phát hiện sớm và kịp thời về vấn đề tâm lý, tâm thần của trẻ, việc đầu tiên sẽ ảnh hưởng là khả năng học tập. Khi các cháu có vấn đề, khả năng tập trung, ghi nhận thông tin sẽ thay đổi. Thứ hai là ảnh hưởng đến sự tương tác, khả năng thích nghi với cuộc sống. Để phát hiện được sớm thì đặc biệt là giáo viên, nhà trường với gia đình cần phải hiểu biết những dấu hiệu đầu tiên là vấn đề tâm lý lứa tuổi, sau đó là các vấn đề về sức khoẻ tâm thần.
Các dấu hiệu sớm như các vấn đề về giấc ngủ, sự thay đổi về các nề nếp sinh hoạt, hay có các dấu hiệu triệu chứng như căng thẳng, lo lắng như khi phải đi học hoặc khi nhắc đến câu chuyện nào đó ở trường mà các cháu không thích.
Để phòng tránh rối loạn tâm thần tuổi vị thành niên, bác sĩ đưa ra khuyến cáo: Gia đình phải quan tâm đánh giá sự thay đổi về mặt tính cách qua các giai đoạn theo các lứa tuổi, mỗi một giai đoạn sẽ có đặc điểm tâm lý rất khác nhau, do vậy triệu chứng từng giai đoạn cũng sẽ khác nhau. Nhà trường, đặc biệt của các thầy cô giáo rồi các chuyên gia tâm lý, khi có sự quan tâm thì mình mới đánh giá được sự thay đổi, nếu không đến khi sự thay đổi rõ rệt rồi thì cơ hội và khả năng hồi phục sẽ kém đi rất nhiều.
Vì sao cắn móng tay, sâu răng, đau cơ cũng báo hiệu bạn bị stress? Nguyên nhân của những rối loạn tâm thần phổ biến một phần do tình trạng stress kéo dài nhưng người bệnh không nhận diện được. Bác sĩ chuyên khoa sức khỏe tâm thần chỉ ra 7 dấu hiệu cảnh báo về chúng ta đa đối diện với stress. Theo TS.BSCKII. Nguyễn Văn Dũng, Phó Viện trưởng Viện Sức khỏe tâm thần (Bệnh viện...