Người Việt duy nhất thi đỗ trạng nguyên ở Trung Quốc
Khương Công Phụ đã vượt qua các thí sinh khác của Trung Quốc để trở thành trạng nguyên nơi đất khách quê người.
Khương Công Phụ (731-805) tự là Đức Văn. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, ông người làng Sơn Ổi, xã Cổ Hiển, nay là làng Tường Vân, xã Định Thành, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
Theo sách Giai thoại Lịch sử Việt Nam, Khương Công Phụ từ bé đã nổi tiếng thông minh, có trí nhớ tuyệt vời.
Tương truyền, lúc Trương Công Phụ còn nhỏ, bố ông là Khương Công Dĩnh thấy con sáng dạ nên mừng lắm. Ông tìm người giỏi chữ cùng mở cửa hàng thuốc bắc gần nhà gửi con theo học.
Khương Công Phụ tiến bộ rất nhanh khiến thầy giáo phải ngạc nhiên, khen ngợi. Cậu thuộc sách Tứ thư, Ngũ kinh và thấu hiểu nghĩa lý trong Kinh thư, Kinh lễ…
Trước khi được tới kinh đô Tràng An của nhà Đường dự thi, Khương Công Phụ phải trải qua rất nhiều kỳ thi sát hạch. Dù về kinh sử hay thơ phú, bài làm của Công Phụ đều đạt xuất sắc.
Khương Công Phụ được xếp hàng đầu trong danh sách 8 sĩ tử của 8 quận đất Giao Châu về Tràng An dự thi, dưới triều vua Đường Đức Tông (780-803).
Tranh vẽ hai anh em Khương Công Phụ. Nguồn: Báo Bình Phước.
Tại kỳ thi này, ông đỗ đầu. Sau khi đỗ trạng nguyên, Khương Công Phụ được vua Đường phong chức Hiệu thư lang (chức quan văn). Sau đó, ông dâng lên vua bài “kế sách trị nước” với nhiều ý tưởng xuất sắc.
Video đang HOT
Vua Đường Đức Tông rất kính nể, phong cho ông những chức vụ cao hơn như Hữu thập di hàn lâm học sĩ, kiêm chức Hộ tào tham quân.
Khương Công Phụ là trường hợp “có một không hai” trong lịch sử phong kiến ở Việt Nam, khi là người Việt đầu tiên và duy nhất thi đỗ trạng nguyên, rồi giữ vị trí cao trong bộ máy cai trị của cả đất nước Trung Hoa. Giới nho sĩ qua nhiều thế hệ ca ngợi Khương Công Phụ không chỉ tài năng văn chương, mà còn có phẩm chất, tư cách của một “kẻ sĩ” xuất chúng.
Ông vốn tính cương trực, thẳng thắn, không sợ kẻ cường quyền. Đến vua Đường làm sai, ông cũng mạnh dạn góp ý, can ngăn. Trong khi đó, các quan đại thần là người Hán trong triều nhà Đường không dám làm điều này.
Lúc bây giờ, triều đình nhà Đường có viên quan võ Chu Thử bị vua truất hết binh quyền, sinh uất hận. Khương Công Phụ đoán người này sẽ hại vua nên khuyên ông cẩn thận đề phòng, nhưng vua Đường không nghe. Sau này, Chu Thử nổi loạn. Nhờ kế sách của Khương Công Phụ, vua Đường mới dẹp được quân phản nghịch.
Sau khi dẹp xong loạn Chu Thử, vua Đường phong Khương Công Phụ làm “Gián định đại phu”, “Đồng trung thư môn hạ bình chương sự” (có tài liệu cho rằng ông được thăng tới chức tể tướng), những chức quan được quyền can vua, xem xét mọi sai lầm của các đại thần.
Tuy nhiên, cuộc đời của vị trạng nguyên người Việt không có được cái kết trọn vẹn. Sau khi con gái chết yểu, vua Đường quá thương con đã hạ lệnh xuất rất nhiều tiền để xây dựng lăng miếu nguy nga, lộng lẫy cho con. Khương Công Phụ thấy đây là việc làm sai trái nên ra sức can ngăn. Vua nổi giận giáng ông xuống làm quan tầm thường và đày đi xa.
Mãi đến năm 805, sau khi vua Đường Đồng Thuận lên ngôi, nhận thấy lẽ phải trong lời can ngăn của Khương Công Phụ, liền xuống chiếu cử ông làm Thứ sử Cát Châu. Vị lão thần tuổi già sức yếu đã qua đời trước khi đến nơi nhậm chức.
Theo Zing
Vũ Kiệt và bài văn đỗ trạng kiệt xuất trong lịch sử
Với trí tuệ uyên bác, Vũ Kiệt trở thành trạng nguyên nổi danh trong lịch sử. Bài văn đỗ trạng của ông là kiệt tác nói về sách lược trị nước, an dân, đặc biệt là giáo dục đào tạo.
Theo sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Vũ Kiệt sinh năm 1452, chưa rõ năm mất, người xã Yên Việt, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
Nổi tiếng thông minh từ nhỏ, năm 20 tuổi, ông đỗ trạng nguyên khoa thi năm Nhâm Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ ba, đời vua Lê Thánh Tông (năm 1472). Đây chính là thời kỳ giáo dục thi cử phong kiến đang trong giai đoạn phát triển cực thịnh.
Theo chế định thi cử xưa, người muốn đỗ trạng nguyên phải thi đỗ 3 kỳ thi Hương, thi Hội và thi Đình. Trong đó, thi Đình cao nhất, được tổ chức ngay trong sân điện nhà vua.
Khác với những kỳ thi trước đó, thi Đình chỉ thi một bài văn sách nên gọi là Đình đối văn sách, do nhà vua trực tiếp ra đề và trực tiếp phê duyệt, xếp hạng.
Để là trạng nguyên, sĩ tử ngoài những kiến thức chung phải hiểu biết sâu về tình hình đất nước, vận dụng tri thức của mình để lý giải, đề ra kế sách giải quyết những vấn đề thực tiễn.
Ngôi trường mang tên trạng nguyên Vũ Kiệt ở Bắc Ninh. Ảnh: Báo Bắc Ninh.
Theo sách Văn hiến Kinh Bắc, bài "Văn sách thi đình" của Vũ Kiệt được triều đình coi như kiệt tác nói về sách lược trị nước, an dân, được lưu truyền làm mẫu cho các sĩ tử sau này học tập.
Vũ Kiệt đã vượt qua đề thi "Đế vương trị thiên hạ" của nhà vua với bài viết dài hơn chục nghìn chữ, vượt xa mức quy định tối thiểu ba nghìn chữ.
Trong phạm vi bài văn, ông thể hiện được tài kinh bang tế thế, nhìn xa trông rộng của bản thân, đồng thời đưa ra những biện pháp giải quyết nhiều vấn đề lớn của xã hội lúc bấy giờ.
Chẳng hạn, phần nói về giáo dục, nhà vua đã hỏi: Sách xưa có câu thầy nghiêm thì việc học đạo mới được tôn kính. Nhưng hiện tại, nho sinh lại cảm thấy xấu hổ khi đến học thầy, cốt làm những chuyện họa may hoặc qua tuần, qua tháng lại đổi thầy.
Một nho sinh mà chưa bao giờ biết gò mình trong việc tu chỉnh, khi đạt được danh vọng ở triều đình thì ít tuân theo lễ nghĩa. Đạo làm thầy bị bỏ rơi sao mà lâu thế, làm thế nào để cứu vãn được?
Vũ Kiệt trả lời rằng: "Thần nghe, cái học của người xưa nhất thiết phải có thầy, người thầy làm nhiệm vụ truyền đạo, thụ nghiệp nêu lên những chỗ nhầm lẫn, giải thích những điều tôn nghi trong sách vở. Các ngành, nghề, ngay cả những nghề vụn vặt cũng không thể không có thầy được, huống hồ người theo học đạo Nho".
Ông nói rằng kẻ sĩ phải thấy mình được vinh hạnh, càng chăm lo việc thực học. Lúc chưa thành đạt thì sống theo đạo lý thông thường để chờ thời gặp mệnh, không để mất phẩm chất riêng. Lúc đã được tin dùng thì phải giữ đúng danh vị và làm việc thực sự, không thể để mất cái điều mà mình mong muốn.
Ông cũng nêu những tồn tại của giáo dục lúc bấy giờ: Cũng có khá nhiều người làm thầy tư chất kém cỏi, văn vẻ vụng về. Cái mà học trò cần là sự uyên bác nhưng người thầy lại có kẻ nông xoàng, tài cán thô thiển.
"Đạo làm thầy không vững như thế còn lạ gì khi thấy sĩ tử xấu hổ việc đi học... Tâm thật đã mất trước khi ra làm quan rồi, sau khi ra làm quan còn tìm sao được tiết tháo và phong độ của họ...", Vũ Kiệt nêu vấn đề.
Trạng nguyên Vũ Kiệt còn vạch ra hướng để khắc phục những tồn tại ấy: "Thần mong bệ hạ đạo làm thầy phải được tuyển chọn kỹ càng. Việc nuôi dạy sĩ tử phải đúng hướng... Tìm nhân tài trước hết phải chú ý đến mặt đức hạnh, phế truất kẻ phù hoa... Người dùng lời gian dối để trau chuốt, dứt khoát không dùng. Người dám nói thẳng... thì có thể thu nhận".
Trạng nguyên Vũ Kiệt được ca ngợi là "bậc thiên tài kiệt xuất, đức độ vẹn toàn", tấm gương sáng cho hậu thế noi theo.
Ngôi làng quê ông có tên Nôm là Vít nên dân gian quen gọi ông là Trạng Vít. Hiện nay, tên ông được đặt cho nhiều công trình ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Bài văn đỗ trạng của Vũ Kiệt là kiệt tác nói về sách lược để trị nước, an dân, đặc biệt về lĩnh vực giáo dục đào tạo và sử dụng nhân tài. Quan điểm đó đến nay còn nguyên giá trị.
Tên tuổi của ông không chỉ được khắc trên bia đá ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) hay Văn Miếu ở Bắc Ninh, mà còn đi vào lịch sử khoa bảng nước nhà với tư cách là một trong những bậc nhân tài kiệt xuất.
Theo Zing
Thầy giáo trạng nguyên dạy nhiều học trò đỗ tiến sĩ 8 năm dạy học, trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu đào tạo được nhiều nhân tài cho đất nước, sau này đỗ cao trong các kỳ thi. Trong đó, ba người đỗ tiến sĩ. Theo sách Hoàng Lê nhất thống chí và Hội đồng Ngô tộc Việt Nam, Ngô Miễn Thiệu tự Thuần Nhã, hiệu là Trúc Khê (sinh năm 1499, chưa rõ năm...