Người Việt đầu tiên nhận giải thưởng quốc tế danh giá về “Quốc gia thông minh”
Hôm qua, ngày 1/10 (theo giờ địa phương) tại Thủ đô London – Vương quốc Anh, lần đầu tiên một nữ Viện sĩ, tiến sĩ – doanh nhân Việt Nam đã được nhận giải thưởng xuất sắc nhất “Ý tưởng, mô hình và hệ thống tích hợp về quốc gia thông minh nhất thế giới”.
Cuộc thi do tổ chức Thành phố thông minh (TPTM) thế giới phối hợp với Hiệp hội Công nghệ Pháp Normandy French Tech và Viện Khoa học Điều khiển – Viện Hàn lâm Khoa học Liên bang Nga đồng tổ chức.
Giải thưởng quốc tế ở lĩnh vực Quốc gia thông minh đầu tiên của Việt Nam
Vượt qua hàng trăm mô hình và dự án về thành phố thông minh được gửi đến dự thi từ nhiều quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, Singapore, Indonesia, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, Estonia,… Viện sĩ, tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Nhàn – Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Tiến bộ Quốc tế (AIC Group) và Công ty Cổ phần Tiến bộ Quốc tế đã giành được danh hiệu “Ý tưởng và mô hình quốc gia thông minh xuất sắc nhất” tại lễ trao giải này.
Viện sĩ, tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Nhàn – Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Tiến bộ Quốc tế (AIC Group) và Công ty Cổ phần Tiến bộ Quốc tế đã giành được danh hiệu “Ý tưởng và mô hình quốc gia thông minh xuất sắc nhất”
Đây là một tin vui dành cho giới công nghệ Việt Nam và cũng là niềm tự hào cho người Việt ở khắp nơi trên thế giới vì lần đầu tiên một giải thưởng danh giá đã được cộng đồng quốc tế trao cho cá nhân và doanh nghiệp Việt Nam ở lĩnh vực Quốc gia thông minh (QGTM) trong khuôn khổ một cuộc thi có quy mô toàn cầu.
Ngoài giải thưởng danh giá nêu trên, Ban tổ chức cuộc thi toàn cầu về TPTM cũng đã trao các giải phụ như: Giải pháp chính quyền điện tử tốt nhất cho tập đoàn Tomi World (Bồ Đào Nha), giải thưởng năng lượng thông minh cho Tập đoàn Energy Smart của Estonia và giải thưởng xuất sắc trong đổi mới sáng tạo cho Tập đoàn công nghệ Dell EMC.
Viện sĩ, tiến sĩ – doanh nhân Việt Nam Nguyễn Thị Thanh Nhàn nhận danh hiệu “Đại sứ thành phố thông minh quốc tế” và “CEO có tầm nhìn xuất sắc nhất về QGTM”
Cũng trong khuôn khổ buổi lễ trao giải, Viện sĩ, tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Nhàn – Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn AIC đã được Ban giám khảo và tổ chức TPTM thế giới trao danh hiệu “Đại sứ thành phố thông minh quốc tế” và “CEO có tầm nhìn xuất sắc nhất về QGTM” vì những cống hiến và tâm huyết của nữ tiến sĩ trong việc thúc đẩy triển khai mô hình TPTM; đặc biệt là xây dựng ý tưởng, mô hình quốc gia thông minh toàn diện cho Việt Nam một cách đầy sáng tạo nhưng cũng rất thực tế và có tính khả thi cao, chú trọng tới các lợi ích lan toả đến mọi đối tượng hưởng lợi trong xã hội.
Được biết, tổ chức TPTM thế giới là nơi quy tụ các chuyên gia hàng đầu về TPTM và là nơi cổ vũ cho các ý tưởng, các mô hình TPTM, QGTM.
Theo Ban tổ chức, mô hình này có thể làm mẫu tham khảo cho các thành phố, các quốc gia bởi vì trên thế giới hiện nay hầu như mới chỉ có các giải pháp đơn lẻ, tập trung vào một hoặc vài lĩnh vực như giao thông thông minh, quản lý năng lượng thông minh, y tế thông minh, thành phố an toàn,…
Đại sứ Việt Nam tại Vương quốc Anh Trần Ngọc An đến tham dự buổi lễ trao giải
Kết nối hàng loạt tiện ích, ứng dụng thông minh
Giải pháp “Quốc gia thông minh” do Viện sĩ, tiến sĩ Nhàn là người sáng tạo và thiết kế toàn hệ thống cùng với đội ngũ cán bộ của Tập đoàn AIC được Ban tổ chức cuộc thi đánh giá cao nhất do thể hiện được quy mô kết nối đồng bộ từ các cơ quan lãnh đạo Trung ương cho tới các bộ, ngành, các tỉnh thành và thậm chí tới cả các cấp cơ sở như nhà trường, bệnh viện, doanh nghiệp,…
“ Bao trùm lên mô hình kết nối này là các tiện ích và hàng loạt ứng dụng thông minh dựa trên nền tảng dữ liệu lớn, thông tin thời gian thực, trí tuệ nhân tạo, thuật toán phân tích dự báo, tạo thành hệ thống trung tâm điều hành tích hợp các cấp, hiện thực hoá mô hình tương tác đa chiều và lợi ích bao trùm cho hơn 20 nhóm đối tượng hưởng lợi: từ lãnh đạo, nhà quản lý, các cơ quan chuyên môn, nhà nghiên cứu, bác sĩ, bệnh nhân, giáo viên, học sinh, du khách cho tới người dân nói chung và mọi thành phần khác trong toàn xã hội”, nữ tiến sĩ – doanh nhân Thanh Nhàn chia sẻ.
Viện sĩ, tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Nhàn phát biểu tại buổi lễ nhận giải
Video đang HOT
Ban giám khảo cuộc thi cũng đã lấy ý kiến nhận xét của các viện nghiên cứu uy tín, nổi tiếng thế giới các chuyên gia về TPTM và các đại diện của các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới như Dell, HP, Sysco, Oracal về nhận xét mô hình này. Tất cả các ý kiến đều đánh giá cao tính đồng bộ, thông minh và khả thi của mô hình đến từ đại diện của Việt Nam.
Với những quyết tâm được thể hiện ngày một rõ nét từ Đảng, Quốc hội và Chính phủ cũng như chính quyền các cấp tại Việt Nam trong thời gian gần đây liên quan tới việc xây dựng chính phủ số và đô thị thông minh; với việc ý tưởng và mô hình của chính doanh nghiệp Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đề cao.
Hi vọng rằng trong tương lai không xa, các doanh nghiệp tiên phong như Tập đoàn AIC sẽ cùng chung tay góp sức để xây dựng đất nước thành một QGTM, xứng với tiềm năng, lợi thế sẵn có, tạo đà bứt phá cho phát triển kinh tế – xã hội toàn diện và trở thành một điển hình về xây dựng QGTM cho các nước trong khu vực và trên thế giới.
Người phụ nữ có “tấm lòng vàng” với nhiều danh hiệu lớn trong nước và quốc tế
Được biết, tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Nhàn là người đã đạt được rất nhiều danh hiệu lớn của thế giới và Việt Nam trong gần 20 năm qua như: Viện sĩ xuất sắc trong 10 năm liên tục từ 2005 đến 2015 của Viện Hàn lâm Khoa học Công nghệ các hệ thống CHLB Nga; Giải thưởng doanh nghiệp Asean tiêu biểu, được tạp chí Forbes Mỹ bình chọn là người phụ nữ có tầm ảnh hưởng nhất Việt Nam 2017; Giải thưởng Bông hồng vàng; Giải thưởng Sao đỏ; Giải thưởng 10 gương mặt trẻ tiêu biểu nhất Việt Nam 2004 …
Không chỉ là doanh nhân xuất sắc, tiến sĩ Thanh Nhàn đã triển khai nhiều chương trình giúp đỡ hỗ trợ hàng chục ngàn người nghèo tìm cơ hội việc làm
Ngoài việc phát triển về kinh doanh, tiến sĩ Thanh Nhàn cũng đã triển khai nhiều chương trình giúp đỡ hỗ trợ hàng chục ngàn người nghèo tìm cơ hội việc làm; hỗ trợ hàng ngàn sinh viên nghèo làm việc tại nước ngoài và tổ chức các chương trình giao lưu sinh viên Việt Nam ra quốc tế; hỗ trợ kêu gọi đầu tư nhiều tỷ USD vào Việt Nam…
Hỗ trợ tổ chức nhiều sự kiện giao lưu văn hoá nghệ thuật nổi tiếng như lễ hội Hoa Anh đào Nhật Bản tại Việt Nam tại nhiều tỉnh, thành phố được đánh giá là đẹp và độc đáo nhất tại Việt Nam và thế giới.
Ngoài ra, công ty AIC đã hỗ trợ cùng VTV đầu tư kênh truyền hình giáo dục Việt Nam VTV7 phát sóng từ tháng 01//2016. Kênh truyền hình này được lập ra với mong muốn tạo ra sự công bằng trong giáo dục cho mọi đối tượng trong xã hội và được các em học sinh rất yêu thích.
Bên cạnh đó, nữ tiến sĩ đã hỗ trợ cho bà con nông dân xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp, thủy hải sản sang nước ngoài trong những lúc thị trường đang khó khăn như xuất khẩu vải thiều, chuối sang nhiều nước và xuất khẩu thủy sản cho các tỉnh Miền Trung sang nước ngoài khi có sự cố về môi trường.
Đặc biệt, Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Nhàn cũng là người có vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ đàm phán thành công trong việc giải quyết sự cố môi trường của tập đoàn Formosa năm 2016 tại Việt Nam.
Thu Hạnh
Theo Dân trí
Tiếng Việt công nghệ giáo dục: tranh cãi vì đâu?
Dư luận mấy ngày nay xôn xao về một clip dạy đánh vần 'lạ' thật ra là của chương trình công nghệ giáo dục đã tồn tại mấy mươi năm qua.
Tài liệu dạy tiếng Việt lớp 1 của công nghệ giáo dục (TV1-CNGD) đến nay tròn 40 năm ra đời nhưng chỉ tính riêng 5 năm gần đây, dưới hai thời bộ trưởng Bộ GD-ĐT thì cách đánh giá, nhìn nhận về tài liệu này đã có những sự thay đổi đáng kể.
2016: Rất tốt, 2017: thẩm định lại !
Năm học 2012 - 2013, nhiều nhà báo và nhà giáo dục đã dùng từ "hồi sinh" khi nói về TV1-CNGD dưới thời Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phạm Vũ Luận khi nó được triển khai nhân rộng trên khoảng 47 - 48 tỉnh trong cả nước, đồng thời quyết định thành lập Trung tâm CNGD, trực thuộc Nhà xuất bản Giáo dục VN. Giám đốc Trung tâm CNGD chính là cha đẻ của CNGD, GS Hồ Ngọc Đại.
Từ năm học 2012 - 2016 có lẽ là giai đoạn "hồi sinh" mạnh mẽ nhất của CNGD. Tổng kết năm học 2015 - 2016, đánh giá về tài liệu này của Vụ Giáo dục tiểu học, Bộ GD-ĐT ghi nhận đầy lạc quan: Dạy học môn TV1- CNGD làm thay đổi phương pháp dạy học của giáo viên (GV) và phương pháp học của học sinh (HS). Học TV1-CNGD giúp HS nắm chắc kiến thức ngữ âm tiếng Việt, luật chính tả, đọc thông, viết thạo, phát âm chuẩn, qua thời gian nghỉ hè không quên chữ. Chất lượng môn tiếng Việt lớp 1 được nâng cao.
Năm học 2015 - 2016, môn TV1-CNGD đã được triển khai tại 23.336 trường của 47 tỉnh cho 583.838 HS. Các tỉnh Lào Cai, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Nam Định, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Kiên Giang triển khai dạy TV1-CNGD cho 100% HS lớp 1. Điều này đã chứng minh tính hiệu quả và tính khả thi của môn TV1-CNGD đối với giáo dục tiểu học.
Tuy nhiên, đến năm 2017, dưới thời Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ, trong báo cáo tổng kết năm học 2016 - 2017 thì những đánh giá của Bộ GD-ĐT về việc chỉ đạo thực hiện dạy học TV1-CNGD đã thận trọng hơn rất nhiều dù năm học 2016 - 2017, cả nước có 48 tỉnh, TP đã triển khai dạy học môn TV1-CNGD với 7.857 trường và 693.0478 HS tham gia.
Vẫn nhìn nhận dạy và học TV1-CNGD đã làm thay đổi phương pháp dạy và học của GV, HS và là một trong những giải pháp nâng cao chất lượng môn tiếng Việt cho HS, nhất là HS vùng dân tộc thiểu số; tuy nhiên Bộ cũng cho rằng việc triển khai dạy học theo TV1-CNGD ở một số địa phương còn bất cập, hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện, một số ngữ liệu chưa phù hợp với tâm sinh lý HS lớp 1...
Để khắc phục tình trạng trên và để đạt được kết quả tốt, Bộ GD-ĐT đã giao Viện Khoa học - Giáo dục VN tiến hành khảo sát, đánh giá kết quả đạt được cũng như những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình triển khai để có hướng chỉ đạo trong thời gian tới. Từ kết quả khảo sát, đánh giá, Bộ GD-ĐT đã thành lập hội đồng thẩm định quốc gia và tổ chức thẩm định bộ tài liệu TV1-CNGD. Theo kết luận của hội đồng thẩm định, NXB Giáo dục VN đã chỉnh sửa, bổ sung, hoàn chỉnh và trình xin ý kiến lãnh đạo Bộ.
Chương trình tiếng Việt - công nghệ giáo dục hiện triển khai ở gần 50 tỉnh thành - ẢNH: NGỌC DƯƠNG
Sự khác nhau giữa 2 cách học tiếng việt
Trao đổi với báo chí, PGS-TS Bùi Mạnh Hùng, người được giao làm Chủ tịch Hội đồng quốc gia thẩm định tài liệu TV1- CNGD, điều phối viên chính Ban Phát triển chương trình giáo dục phổ thông mới, nhìn nhận: So với cuốn sách tiếng Việt đại trà thì cách tiếp cận của TV1-CNGD có nhiều điểm khác biệt, trong đó có cách dạy đánh vần.
Tài liệu TV1-CNGD dạy đánh vần dựa trên cơ sở phân tích cấu trúc âm tiết tiếng Việt và sử dụng các khái niệm, các thuật ngữ ngữ âm học, như nguyên âm, âm đệm, âm cuối. Nó cũng phân biệt rạch ròi giữa âm và con chữ. Sự phân biệt đó xét về phương diện khoa học là hoàn toàn đúng đắn. Việc có cần phân biệt như vậy khi dạy đánh vần cho HS lớp 1 hay không là vấn đề gây tranh cãi. Dù vậy, ông Hùng khẳng định: "Trên thực tế nó cũng có hiệu quả nhất định và chúng ta không nên phủ nhận".
Cũng theo ông Hùng, sách Tiếng Việt lớp 1 đại trà ưu thế hơn về phát triển các kỹ năng một cách toàn diện: đọc thành tiếng, viết chính tả, đọc hiểu, nói nghe... Nhưng riêng kỹ năng đọc thành tiếng, viết chính tả thì cuốn TV1-CNGD có ưu thế rất nổi bật.
Từ so sánh ấy, ông Hùng nêu quan điểm: "Mỗi cuốn sách có ưu thế của nó, tôi không cho TV1-CNGD là giải pháp tối ưu. Tuy nhiên, đó là giải pháp đáng ghi nhận, tạo ra sự phong phú trong cách tiếp cận thì tôi nghĩ nên khuyến khích những cách triển khai như vậy".
Với tư cách là người xây dựng chương trình giáo dục phổ thông tổng thể mới, ông Hùng cho hay trong chương trình môn tiếng Việt - ngữ văn mới sắp ban hành chỉ quy định các yêu cầu cần đạt về kỹ năng đọc, viết, nói và nghe. Chương trình không bắt buộc HS phải được học theo phương pháp nào.
Ông Hùng cũng cho rằng không nên quan niệm HS trên cả nước phải học một tài liệu duy nhất theo một cách đánh vần duy nhất. Quan điểm đó là xưa cũ, không phù hợp với bối cảnh giáo dục hiện đại. "Câu trả lời chính xác nhất là từ thực tiễn. Chúng ta hãy lắng nghe tiếng nói từ thực tế, tiếng nói của GV, HS", ông Hùng nhấn mạnh.
40 năm "thăng trầm" công nghệ giáo dục
Năm 1978, tài liệu TV1-CNGD được khuyến khích các địa phương sử dụng, coi như một giải pháp để dạy học tiếng Việt.
Đầu những năm 2000, khi chương trình giáo dục phổ thông hiện hành được áp dụng, với chính sách 1 chương trình 1 bộ sách giáo khoa, tài liệu này không được mở rộng nữa mà chỉ được thí điểm trong phạm vi rất hẹp.
Năm 2006, triển khai trong khuôn khổ đề tài cấp Bộ nhằm nâng cao chất lượng dạy học tiếng Việt cho HS dân tộc thiểu số và 2 năm sau đó được thí điểm trong khoảng 20 tỉnh.
Đến năm 2012, bỏ thí điểm, mở rộng phạm vi áp dụng.
Năm 2017 và 2018, theo chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Phùng Xuân Nhạ, tài liệu đã được thẩm định lại tới 2 lần. Lần gần đây nhất là cuối tháng 7 vừa qua.
Ý KIẾN
Thực tế hai cách đánh vần là một
Cách đánh vần theo CNGD và cách trước giờ cơ bản không khác nhau nhiều, đều là đánh vần theo âm. Khi đó, chữ c/k/q đều có âm "cờ". Thực tế trong nhà trường trước giờ không có quy định nào về cách đánh vần nhưng thầy cô giáo vẫn dạy đánh vần theo âm. Nếu so với cách đánh vần của sách CNGD thì có khác nhau một chút nhưng thực tế đều là một. Cái khác trong thực tế chỉ là sự "giả tạo" xuất phát từ nhu cầu phân biệt để tránh viết sai chính tả mà thôi.
Tiến sĩ Hoàng Dũng(Trường ĐH Sư phạm TP.HCM)
Không khó khăn gì cho học sinh
Cách đánh vần theo CNGD theo tôi hợp lý và giúp HS lớp 1 nhanh chóng nắm được việc ghép vần. Khi đánh vần thì đọc theo âm (chủ yếu là phụ âm, vì nguyên âm không có vấn đề gì). Trước đây đã có lúc chúng ta dạy cho trẻ đánh vần theo tên con chữ nên trẻ lúng túng. Các nguyên âm đôi iê, ươ, uô trước đây đọc rời từng nguyên âm (chẳng hạn: liên: i - ê - nờ - iên - lờ - iên - liên) nay đọc ghép lại iê - nờ - iên - lờ - iên - liên gọn hơn.
PGS-TS Lê Khắc Cường (Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM)
Học sinh lứa đầu tiên học công nghệ giáo dục nói gì ?
Là học trò Trường thực nghiệm khóa đầu tiên, tôi khẳng định cách học tiếng Việt của trường có sự khác biệt. Khi các bạn học đánh vần từng từ thì chúng tôi học thơ lục bát. Chúng tôi học âm trước, đến chữ rồi mới ghép vần. Nên cách tiếp cận này trở nên lạ lùng với những ai học chữ bằng đánh vần đầu tiên. Mỗi chữ cái đều có tên gọi. Ví dụ "C" ta đọc là "xê" (vitamin C) đó là tên của chữ cái đó nhưng âm phát ra khi đọc nó là cờ. Đó chính là sự khác biệt giữa âm và chữ. Để dễ hiểu tôi xin lấy ví dụ: Chữ Q và K tên của nó là quy và ca nhưng âm của nó phát ra khi ghép vào từ thì vẫn là cờ... Đấy là về mặt nguyên lý khoa học, còn về thực tế thì chúng tôi - những HS "ái hữu thực nghiệm" - là những bằng chứng rõ ràng nhất.
PGS Nguyễn Lân Hiếu (đại biểu Quốc hội, Phó giám đốc Bệnh viện ĐH Y Hà Nội)
Học sinh hiếm khi sai lỗi chính tả
Với môn tiếng Việt của lớp 1, chúng tôi chọn phương pháp của CNGD. Tôi không biết ở những nơi khác như thế nào nhưng với HS dân tộc, nhất là HS dân tộc thiểu số thì việc học tiếng Việt gần như là việc học ngôn ngữ thứ hai của các em. Thực tế này khiến cho việc dạy tiếng Việt rất vất vả nếu dạy theo cách đại trà. Trong khi đó, khi thí điểm áp dụng TV1-CNGD thì các em nắm rất chắc về ngữ âm, học đến đâu chắc đến đó, rất hiếm khi HS sai lỗi chính tả. Lào Cai áp dụng TV1-CNGD với gần như 100% HS không có nghĩa là chúng tôi phê phán chương trình đại trà. Nhưng với mục tiêu là vì HS nên chúng tôi chọn một phương pháp phù hợp với HS của mình.
Trần Thị Minh Thu (Trưởng phòng Giáo dục tiểu học, Sở GD-ĐT Lào Cai)
Hà Ánh - Tuyết Mai (ghi)
Cũ, mới gì cũng phản ứng, tại sao?
Dường như dư luận xã hội (thông qua mạng xã hội) ngày càng "phản ứng nhanh" với cái khác biệt. Đáng buồn là không phải phản ứng nào cũng dựa trên cơ sở nghiên cứu khoa học hoặc lý luận thực tiễn mà nhiều khi chỉ phản ứng vì nó không giống với những cái quen thuộc.
Trong giáo dục, một loạt cái mới được áp dụng hoặc đưa ra xin ý kiến góp ý gần đây đều chịu chung số phận. Mô hình trường học mới (VNEN), chương trình mới, sách giáo khoa mới, cách đánh giá mới; thậm chí, đơn giản hơn chỉ là một đề xuất của cá nhân một nhà ngôn ngữ về cải tiến chữ quốc ngữ... cũng nhận được không ít phê phán, chê bai, thậm chí miệt thị, xúc phạm không tiếc lời. Cái cũ đúng suy ra cái mới phải sai... là điều dễ thấy trên các diễn đàn mạng xã hội.
Câu chuyện TV1-CNGD là một ví dụ gần nhất. Dư luận ồn ào lên tiếng phản đối cho rằng "lạ" mà không tìm hiểu để biết rằng cái mà họ cho là thay đổi ấy thực chất đã tồn tại hàng chục năm.
Mặc dù CNGD đến nay đã được khoảng 50 tỉnh, thành áp dụng, không ít nơi triển khai tới 100% trường tiểu học nhưng các nhà khoa học cũng nhìn nhận không phải vì thế mà khẳng định nó là phương án tối ưu. Cũng như bất cứ phương pháp giáo dục nào đều có những ưu điểm và hạn chế của nó.
Một vị lãnh đạo Sở GD-ĐT TP.Hà Nội nói, sở dĩ các trường công lập của Hà Nội chưa bao giờ áp dụng bộ tài liệu này vì thấy việc thực hiện sách giáo khoa tiếng Việt đại trà vẫn phù hợp hơn, HS được luyện nhiều kỹ năng hơn. Tuy nhiên, vị này cũng cho rằng việc một phương pháp, một bộ sách giáo khoa có thể rất phù hợp với đối tượng HS này nhưng hoàn toàn không được giáo viên và HS ở nơi có điều kiện khác biệt đón nhận là hoàn toàn bình thường. Chính vì thế, mới cần thiết phải áp dụng một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa.
Tuy nhiên, trước những làn sóng phản ứng, nhiều khi rất dữ dội, của dư luận xã hội về những đổi mới trong ngành GD-ĐT thì Bộ GD-ĐT thường tỏ ra rất chậm trễ trong việc truyền thông, giải thích, thậm chí là vì "ngại" dư luận nên thay đổi hoặc dừng lại một chủ trương đúng hướng.
Việc dạy TV1-NGD là một điển hình. Lẽ ra phải nhanh chóng giải thích sự ra đời, tồn tại ra sao, cách thức như thế nào của một phương pháp giáo dục suốt 40 năm qua bằng những con số và kết quả đánh giá từ thực tế thì Bộ GD-ĐT hầu như im lặng, báo chí không thể tiếp cận được vụ chức năng để chuyển tải giải thích của cơ quan chủ quản về vấn đề này. Lẽ ra Bộ có trách nhiệm phải giải thích cho người dân, cho cha mẹ HS hiểu và không hoang mang về những cái mà nhà trường đang dạy cho con em họ.
Nghiên cứu sinh, dịch giả Nguyễn Quốc Vương (Nhật Bản) đã có lý trong trường hợp này khi cho rằng: Giáo dục là lĩnh vực mà bách gia tranh minh ngay từ khởi thủy. Sự phẫn nộ của dân chúng là sự hội tụ đã lâu từ nhiều thứ chứ không chỉ là với cách đánh vần... không nằm ở sách giáo khoa mà nằm ở cơ chế.
Chỉ khi cơ chế minh bạch, rõ ràng, khi tạo dựng được niềm tin thì những thay đổi trong GD-ĐT mới dễ được đón nhận hơn.
Tuệ Nguyễn
Theo thanhnien.vn
Bí thư Thành ủy Đà Nẵng "đặt hàng" cho Đại học Đà Nẵng Chiều nay, (24/8), Đoàn công tác của Đà Nẵng do Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Trương Quang Nghĩa làm trưởng đoàn đã có buổi làm việc với ĐH Đà Nẵng. Ông Trương Quang Nghĩa đặt vấn đề, tới đây, Đà Nẵng có hàng loạt các chính sách, chủ trương về phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch, đào tạo nhân...