Người thầy đặc biệt trên giường bệnh
Dù không đứng trên bục giảng, nhưng chú luôn là người thầy, người đã làm thay đổi tuổi thơ tôi, để cuộc sống của tôi sau này không phải là chuỗi ngày tẻ nhạt và vô nghĩa.
Tôi học hết lớp 2, gia đình đành phải cho tôi tạm nghỉ học. Do sức khỏe yếu, không thể tự đến trường như những đứa trẻ khác, hơn nữa nhà tôi lại neo người, không đưa đón được hàng ngày. Tôi ở nhà, chỉ quanh quẩn, mà chẳng biết khi nào mới được đi học trở lại. Nhìn những đứa cùng tuổi đến trường, tôi thèm lắm, chỉ muốn chạy theo, nhưng lại không thể.
Mãi đến năm mười bốn tuổi, bố mẹ tôi gửi tôi sang nhờ cô giáo Nhung cùng xóm dạy hộ với mong muốn cô dạy cho tôi biết đọc, biết tính toán thông thường, để sau đỡ bị bắt nạt.
Nhưng lúc đó cái khó và chán nhất với tôi là tập viết, tay tôi yếu, lại run nên cầm bút cũng là cả vấn đề. Tôi tô đi tô lại mà không làm sao tô đúng chữ “o”, cô Nhung cầm tay tôi tô, nhưng cứ bỏ ra là tôi lại không tô được. Cô Nhung cố lắm thì sau khoảng hai tháng tôi cũng biết đọc, đọc được báo và truyện, còn viết vẫn là nan giải.
Cùng năm đó nhà tôi mới có điều kiện, tôi đi chữa bệnh ở bệnh viện Chỉnh hình Việt Đức, thị xã Sơn Tây. Tôi bị ngắn gân asin, phải mổ nới (giãn) gân, cùng đó là một thời gian tập luyện tại bệnh viện để phục hồi chức năng.
Phẫu thuật cùng tôi hôm đó, nhưng sau tôi, là một chú người Ninh Bình, mổ kéo dài một bên chân. Chú vừa tốt nghiệp đại học thứ hai, ngành Toán của Đại học tổng hợp. Chú đã có gia đình, nhưng vợ con chú ở tận trong Quy Nhơn, còn người nhà thì chú vẫn chưa cho biết.
Tranh minh họa.
Tôi nằm cùng chú phòng hậu phẫu, chú tên là Lịch. Bệnh nhân Lịch không có người nhà chăm sóc, chỉ thuê bác hộ lý tranh thủ, và nhờ cả vào các y, bác sĩ. Vết mổ của chú lớn, mất nhiều máu, và rất đau, phải tiêm nhiều thuốc giảm đau.
Mẹ tôi chăm tôi, thấy chú Lịch đi mổ như thế lại không có ai chăm, nên có lúc mẹ cũng giúp chú, gần như chăm cho tôi. Sau một tuần nằm phòng hậu phẫu, tôi và chú cùng được xuống một phòng điều trị.
Mấy ngày sau chú Lịch nói với mẹ tôi: “Chị mua mấy quyển sách lớp hai, lớp ba về em thử dạy cháu xem sao”. Chú bảo, qua tiếp xúc ít ngày, chú thấy tôi có khả năng tiếp thu được, ít ra trong thời gian ở viện, tôi có thể đọc thạo hơn, và tính toán được tốt hơn.
Tôi bắt đầu học với chú Lịch từ quyển sách Toán lớp 2. Lúc đầu tôi rất sợ, vì không biết học thế nào, tôi lại chưa đọc lưu loát. Nhưng tôi thực sự bị cuốn hút bởi cách chú dạy tôi, tất cả đều dễ hiểu, và thực tế, rất nghiêm túc.
Vì tôi chưa viết được, nên chú Lịch vừa giảng bài, vừa ghi vào vở để sau tôi đọc lại. Đến khi giải bài tập, chú lại bảo tôi đọc các bước giải để chú ghi, những chỗ khó, chú giảng rõ ràng để tôi hiểu được.
Nhưng ca mổ kéo dài chân của chú Lịch không thành công, bác sĩ quyết định phải cắt bỏ để đi chân giả. Lần này chú Lịch mổ đau hơn lần trước, mặc dù đau đớn như thế, nhưng chú vẫn dạy tôi. Nhiều khi cảm tưởng, chú đang cố dạy tôi để quên đi những cơn đau khủng khiếp. Có lúc chú đang giảng, bỗng ngừng, mặt nhăn vào, hai hàm răng nghiến chặt đến vài phút.
Khi chú Lịch tập đi chân giả, hai chú cháu tôi cùng tập ở khu vật lý trị liệu. Chú Lịch đánh vật với từng bước trên chiếc chân giả, nó quả là đau đớn và khó khăn. Nhất là khi cái chân giả do lỏng đai, hay do chưa được điều chỉnh hợp lý, chạm phải vết thương. Chú nhăn mặt lại, nghiến chặt răng, mặt chú tái đi vì đau.
Tôi và chú cùng tập luyện, với mục đích để đi được tốt hơn, và chú sẽ sớm “làm chủ” được cái chân giả của mình, với hy vọng sẽ bỏ được một bên nạng, để có thể lên bảng cầm phấn giảng bài. Ngoài giờ tập luyện, chú cháu lại tiếp tục học, chú bảo, “phải biết tranh thủ thời gian, nghe giảng phải thật tập trung, ghi nhớ như nuốt lấy từng từ”. Rồi cứ thế chú dạy tôi từng bài từng chương, rồi từng cuốn sách giáo khoa…
Cho đến nay, tôi vẫn tự thấy có cái gì đó thật kỳ lạ. Chú Lịch đã dạy thế nào mà tôi có thể tiếp thu được được một lượng kiến thức như vậy trong một thời gian ngắn (hơn 4 tháng). Với các môn Toán, Tiếng Việt, Văn, Lý, Hóa từ lớp 2 đến lớp 9, cho dù là rất cơ bản.
Từ bệnh viện về, bố mẹ tôi kể với lại việc tôi đã học, nhiều người không tin. Bố mẹ nhờ các thầy cô ở trường cấp hai kiểm tra, thầy cô nhận xét tôi hoàn thành đủ kiến thức như các bạn và có thể theo học với các bạn cùng tuổi (lớp 9).
Video đang HOT
Hè năm 1995, tôi lại đi học các lớp hè cùng bạn bè đồng trang lứa… Sau mấy tháng hè, tôi được nhà trường kiểm tra lại và chấp nhận cho tôi theo học lớp 9 của trường.
Mỗi khi 20/11, tôi lại nhớ nhiều đến chú Lịch và những ngày chú dạy tôi học trên giường bệnh.
Năm thi tốt nghiệp cấp 3, tôi viết vẫn khó, và chậm, nên thi bình thường thì không khả thi với tôi. Nhiều đắn đo của nhà trường, cùng Sở giáo dục – đào tạo, có cả ý kiến đề nghị xét đặc cách tốt nghiệp cho tôi, nhưng tôi không đồng ý. Bởi như thế đồng nghĩa với việc, có thể chuyện học hành của tôi sẽ dừng lại ở đây, hơn nữa tôi cũng muốn tốt nghiệp cấp 3 như các bạn, để chỉ đơn giản tôi nghĩ, đó là một kỷ niệm với mình.
Sau đó không lâu, Sở Giáo dục – Đào tạo báo về trường đã đề nghị và được Bộ Giáo dục – Đào tạo chấp nhận cho tôi thi bằng hình thức vấn đáp. Một hội đồng thi vấn đáp được lập ra cho tôi, với 12 giám thị cho 6 môm thi. Sau kỳ thi với một kết quả khá cao, và tôi thật bất ngờ khi Bộ quyết định đặc cách cho tôi vào đại học.
Trên cả quá trình học của mình, tôi không thể quên những ngày ngồi học với thầy Lịch ở bệnh viện, khi vừa học, vừa chữa bệnh. Mỗi khi 20/11, là dịp để nhớ đến các thầy cô, những người đã dạy dỗ mình, tôi lại nhớ nhiều đến chú Lịch và những ngày chú dạy tôi học trên giường bệnh.
Tiếc rằng, hình như gia đình chú đã thay đổi địa chỉ, nên đã mấy lần tôi viết thư cho chú nhưng không thấy hồi âm. Nhiều năm tôi đã tìm kiếm qua mạng Internet nhưng vẫn chưa có tin tức gì về chú.
Lại đến ngày Nhà giáo Việt Nam, vậy mà… Dù chú đang ở đâu, tôi cũng xin được chúc chú và gia đình mạnh khỏe, và thật nhiều niềm vui, bằng cả lòng biết ơn của mình.
Theo Zing
Kỷ niệm 37 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11): Chuyện một người thầy
Nhận được điện của Hằng báo tin thầy Lâm mệt nặng, tôi cố thu xếp rút ngắn chuyến công tác để có thế ra Bắc sớm hơn.
Nhưng cũng phải gần một tuần sau tôi mới về đến Hà Nội. Ném vội hành lý vào nhà, tôi vớ xe máy phóng đến ngay nhà thầy. Hằng mở cửa đón, tôi hỏi ngay:
- Thầy thế nào rồi?
Hằng vừa giúp tôi đưa xe vào khoảng sân hẹp vừa nói, mắt đỏ hoe:
- Từ tối qua đến giờ thầy lúc tỉnh, lúc mê, chả còn nuốt nổi thìa sữa nữa!
Ảnh minh hoạ do tác giả cung cấp.
Tôi vội vã theo Hằng vào nhà. Thầy Lâm nằm thiêm thiếp trên chiếc giường cá nhân trong căn phòng nhỏ, giữa bốn bề là sách. Tôi quỳ xuống cạnh thầy. Hai bàn tay tôi nắm lấy tay thầy. Tay thầy hơi lạnh, không còn ấm như mọi khi. Tôi khẽ gọi:
- Thầy ơi... con... An đây...
Thầy Lâm vẫn nằm lặng yên. Nhưng tôi cảm thấy bàn tay thầy khẽ động đậy trong tay mình. Tôi biết thầy đã nghe thấy tiếng tôi gọi. Hằng vẫn sụt sịt đứng bên cạnh. Tôi hỏi:
- Sao không đưa thầy vào bệnh viện?
Hằng lau mắt:
- Chúng em đã đưa thầy vào viện. Nhưng sau một tuần thầy cứ dứt khoát đòi về. Mấy hôm nay bệnh tự dưng bệnh thầy nặng thêm.
- Thế thuốc thang cho thầy bây giờ thế nào?
- Mấy anh chị học trò của thầy là giáo sư bác sĩ ở bệnh viện vẫn đến theo dõi, tiêm thuốc cho thầy. Các anh chị ấy cũng vừa mới về xong, lát nữa sẽ lại đến...
Tôi lặng nhìn thầy. Thầy nằm yên trên giường. Đôi mắt của người nhắm nghiền như đang ngủ. Mái tóc của thầy bạc trắng như bông, trắng hơn bui phấn đời người. Nét mặt thầy thanh thản như chưa hề có những cơn đau đang âm ỉ trong cơ thể. Có lẽ thầy hiểu. Cả cuộc đời gắn bó với bao lớp học trò như chúng tôi, con đò của thầy chở bao nhiêu chuyến sang sông nay đã đến lúc phải cập bến nghỉ ngơi, giã từ sóng gió. Nhìn thầy, tôi chợt nhớ lại khi còn là học trò của thầy. Nhớ về kỷ niệm những ngày xanh.
Đó là những năm chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ ở miền Bắc. Khi ấy tôi vừa lên lớp 8. Thời đó, lớp 8 là lớp đầu của cấp ba. Thầy Lâm vừa là chủ nhiệm vừa dạy lớp tôi môn toán. Thầy là người Hà Nội gốc. Hình như thầy có chuyện gì trục trặc về gia đình nên xin lên miền núi quê tôi dạy học. Thầy đem theo đứa con gái nhỏ. Hai bố con thầy ở một gian nhà nhỏ trong khu tập thể. Bé Hằng khi ấy mới năm sáu tuổi đang chuẩn bị vào lớp 1. Tính thầy Lâm rất nghiêm khắc nên chúng tôi không thích thầy lắm. Nhất là tôi lại là một đứa lười học, hay trốn tiết đi bơi ngoài sông hoặc lang thang ra thị trấn. Giờ toán của thầy đúng là một cực hình. Văn thì tôi chả kém mấy ai nhưng lại rất rốt môn toán. Đã thế thầy Lâm lại hay gọi tôi lên bảng. Bị nhiều điểm kém môn toán nên tôi rất lo, nhất là khi chi đoàn đang bồi dưỡng để kết nạp tôi vào đoàn. Học kém sẽ không đủ tiêu chuẩn để trở thành đoàn viên. Ngày ấy không là đoàn viên thì đi bộ đội cũng khó chứ đừng nói gì là vào đại học, cao đẳng. Tôi cũng đã cố tập trung học môn toán. Nhưng sự thông minh không phải cứ cố là có được ngay.
Bài kiểm tra giữa học kỳ môn toán thường là hệ số hai. Được một điểm khá, hay điểm giỏi tức là có hai điểm khá, hai điểm giỏi, khi chia trung bình nó kéo các điểm kém khác lên. Ấy thế mà bài kiểm tra giữa học kỳ một tôi lại làm không tốt. Bài làm tẩy xoá, sửa chữa be bét.
Lúc hết giờ so sánh với các bạn giỏi trong lớp thì tôi làm sai gần hết. Chợt nảy ra một sáng kiến. Tôi liền đem đề bài đi tìm anh Bái. Anh Bái là anh họ tôi học trên một lớp. Anh rất giỏi môn toán. Kỳ thi học sinh giỏi toán toàn tỉnh anh đoạt giải nhì. Tôi nhờ anh giải cho các bài toán trong đề kiểm tra giữa học kỳ. Anh làm một loáng là xong. Tôi ngồi chép lại thật sạch sẽ. Buổi chiều, tôi lân la gần nhà thầy Lâm.
Nhìn thấy bé Hằng đang thập thò ở cửa, tôi vẫy vẫy tay khẽ gọi:
- Hằng... Hằng... ra đây anh bảo!
Vừa trông thấy tôi, bé Hằng đã lon ton chạy ra ngay. Con bé rất thích tôi vì tôi hay gấp cho nó khi thì cái chong chóng, lúc thì con châu chấu bằng lá dừa hoặc con thuyền bằng giấy.
Bé Hằng tíu tít:
- Anh An ơi! Hôm nay anh gấp cho em con chim bồ câu nhé!
Tôi bẹo má nó thì thào hỏi:
- Bố có ở nhà không?
- Bố em vừa đi "ọp an ám iệu ồi" (họp ban giám hiệu rồi).
Bé Hằng nói líu cả lưỡi. Tôi bảo:
- Thế thì tốt! Nhưng anh không có giấy để gấp...
- Bố em có ối... - Con bé khoe. Tôi bảo:
- Để anh vào nhà xem có tờ giấy nào bỏ đi lấy gấp đồ chơi cho em nhé!
Bé Hằng gật đầu. Tôi lẻn nhanh vào phòng thầy Lâm. Chả khó khăn gì, tôi tìm thấy tập bài kiểm tra toán thầy đang chấm dở để trong ngăn bàn. May quá, bài của tôi thầy chưa chấm đến. Tôi nhanh chóng đổi ngay bài làm vừa nhờ anh Bái giải giúp vào tập bài kiểm tra. Xong xuôi, tôi khép cửa và kéo bé Hằng ra mãi ngoài góc sân trường. Bé Hằng cứ luôn miệng giục đòi: "Anh gấp bồ câu cho em... anh gấp bồ câu cho em...". Tôi lúng túng, kiếm đâu ra giấy để gấp đồ chơi cho nó bây giờ. Bé Hằng sốt ruột ngúng nguẩy trực khóc. À đây rồi, tờ giấy bài kiểm tra làm sai đánh tráo khi nãy còn gấp nhét trong túi quần. Tôi lấy tờ giấy ra vuốt phẳng, xé đôi rồi gấp cho bé Hằng chiếc thuyền và con chim bồ câu.
Bài kiểm tra giữa học kỳ ấy tôi được điểm chín. Bọn con trai lười học trong lớp đều tròn mắt bái phục. Thầy Lâm biểu dương tôi trước lớp rồi nói thêm: "Thầy mong rằng em sẽ tiếp tục cố gắng nhiều hơn để giữ vững kết quả học tập của mình". Tôi thấy yên tâm vì thầy không phát hiện ra trò láu cá, gian lận của mình. Nhưng tôi cũng hơi hoảng vì nếu những bài kiểm tra tiếp theo lại bị điểm kém thì biết ăn nói thế nào với các bạn cùng lớp. Thế là tôi chú ý chăm chỉ học tập hơn. Tôi cũng thường xuyên đến nhờ anh Bái hướng dẫn thêm cho môn toán.
Một hôm, thầy Lâm tìm tôi bảo:
- Bé Hằng bị mệt, dỗ mãi không chịu ăn cơm, nó cứ đòi thầy đi tìm anh An đến gấp cho cái chong chóng mới chịu ăn.
- Thưa thầy! Hết buổi học em sẽ đến ngay ạ!
Tôi đáp. Hết giờ học tôi đến ngay phòng thầy Lâm. Bé Hằng đươc mấy thứ trò chơi thích quá, tay cầm cái chong chóng làm bằng lá dừa ăn liền hai lưng bát cơm. Từ đó tôi hay đến chơi với bé Hằng và cũng thấy bớt ngại thầy Lâm nghiêm khắc, khó tính. Thầy Lâm cũng tranh thủ kèm cặp hướng dẫn tôi thêm về môn toán. Đến cuối học kỳ một, lực học môn toán của tôi khá lên hẳn. Điểm kiểm tra đều từ bảy trở lên. Thỉnh thoảng, tôi còn được chín điểm môn toán.
Chiến tranh phá hoại của Mỹ lan rộng khắp miền Bắc. Trường chúng tôi sơ tán vào trong rừng sâu. Bé Hằng vào học lớp 1. Nhiều hôm thầy Lâm bận lên lớp hoặc đi họp, tôi giúp thầy đưa đón bé Hằng đi học. Thầy coi tôi như con, tận tình chỉ bảo, nhắc nhở tôi học tập. Tôi cũng rất quý thầy và bé Hằng. Ngày ấy cuộc sống rất khó khăn. Quê tôi thường thiếu đói khi giáp hạt. Nhiều bữa thầy lấy cớ là bé Hằng không chịu ăn nếu không có anh An đến chơi để giữ tôi ở lại ăn cơm. Sau này tôi mới hiểu thầy thương tôi nhà nghèo, ăn uống thiếu thốn, nhiều bữa chỉ có sắn thay cơm. Mỗi khi đem tem phiếu ra mậu dịch mua được chút thịt cá tươi là thầy đều tìm cách giữ tôi ở lại ăn cơm.
Gần hết năm học lớp 8, tôi được kết nạp vào đoàn. Hôm làm lễ kết nạp cho tôi thầy Lâm vui lắm. Thầy đưa cả bé Hằng đến. Sau lễ kết nạp bé Hằng tặng tôi một bó hoa rừng. Giữa năm lớp 9, lúc này chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc tạm ngưng. Trường lại chuyển về thị trấn. Tôi còn nhớ hôm đó là ngày nghỉ, khu nhà tập thể giáo viên vắng vẻ. Tôi đến thăm thầy Lâm và bé Hằng. Đi tới gần phòng thầy ở cuối dãy nhà tập thể thì tôi nghe tiếng kêu khóc của bé Hằng. Tôi vội chạy vào. Thầy Lâm đang nằm dưới sàn nhà. Bé Hằng đang cuống quýt lay gọi bố. Thầy bị một cơn đau đột ngột. Thầy có tiền sử bị bệnh tim. Thấy tôi, thầy cố thều thào bảo:
- Đừng... sợ... thầy... kh...ông việc gì đâu. Cứ để thầy nằm yên một lúc. Thuốc thầy để ở ngăn tủ trên, An lấy cho thầy...
Tôi chạy vào góc phòng mở tủ tìm thuốc. Lúc kéo ngăn tủ ra tìm lọ thuốc tôi chợt thấy một cái thuyền và con chim bồ câu giấy cũ kỹ để ở trong hộc tủ. Tôi cầm lên xem và giật mình sửng sốt nhận ra chính là cái thuyền và con chim bồ câu tôi đã gấp cho bé Hằng bằng tờ giấy bài kiểm tra môn toán giữa học kỳ năm lớp 8 làm sai mà tôi đã đánh tráo. Thì ra ngay từ ngày ấy, thầy đã biết tôi đổi bài kiểm tra. Nhưng thầy đã không đưa tôi ra kiểm điểm trước lớp. Thầy có một cách khác để giúp tôi tiến bộ, học tập tốt hơn. Đó là cách của một người thầy luôn độ lượng, bao dung.
Tôi để chiếc thuyền và con chim giấy vào chỗ cũ rồi đem thuốc ra cho thầy...
*
Năm tháng qua đi, hết chiến tranh, thầy Lâm chuyển về dạy học tại thủ đô. Nghỉ hưu, thầy đi dạy tại lớp học tình thương cho trẻ em đường phố. Thầy vẫn dõi theo mỗi bước trưởng thành của các lớp học trò chúng tôi. Với tôi, thầy luôn có một sự quan tâm đặc biệt. Khi biết tôi trưởng thành thầy mừng lắm. Bé Hằng ngày ấy giờ cũng đã là một tiến sĩ, một nhà khoa học. Thầy đã một mình nuôi con khôn lớn và dạy dỗ bao lớp học trò nên người. Một mình thầy cô đơn với chiếc giường cá nhân. Nhưng bên thầy có bao lớp học trò vững bước, trưởng thành.
Bây giờ thì thầy nằm đó thanh thản trong tĩnh lặng. Là người chèo lái, thầy đã chở bao nhiêu chuyến đò tri thức sang sông cho chúng con nên người. Chúng con biết ơn thầy mãi mãi thầy ơi!
Hà Nội, 20-11-2008
Theo vanhien
Nguyễn Ngọc Ký - Nhà giáo viết huyền thoại bằng chân Cuộc đời nhà văn, NGƯT Nguyễn Ngọc Ký luôn đồng hành cùng những nỗ lực không ngừng là minh chứng đầy sức thuyết phục rằng một người khuyết tật vẫn có thể trở thành người có ích cho xã hội. PGS.TS. Lê Thị Bích Hồng - Giảng viên cao cấp Trường Đại học Sân khấu-Điện ảnh Hà Nội "Chú lính chì" Việt Nam...