Người thầy của sáu vị tướng
Người thầy giáo đặc biệt ấy là Đại tá Doãn Mậu Hòe, nguyên Hiệu trưởng Trường Văn hóa Quân khu V, Hiệu phó Trường Quân sự Quân khu V. Còn những học trò đặc biệt ấy là Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Đại tướng Hoàng Văn Thái…
Trong căn nhà nhỏ trên đường Nguyễn Văn Thoại (quận Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng), Đại tá Doãn Mậu Hòe ngồi cặm cụi lau chùi những kỷ vật của một thời hoa lửa. Đó là những quyển giáo án, bút kim sinh, chiếc mũ rơm, bi đông đựng nước… những thứ đã gắn liền với ông qua hai cuộc chiến. Dù đã bước qua tuổi 80 nhưng ông giáo già vẫn còn minh mẫn, nhanh nhẹn theo đúng phong cách nhà binh.
Những học trò đặc biệt
Đại tá Hòe kể: “Năm 1949, tôi tốt nghiệp lớp đệ tứ (lớp 12 – PV) và thi đậu vào trường sơ cấp sư phạm ở Quế Sơn. Nhưng đúng ngày khai giảng thì tôi nhận được lệnh lên đường gia nhập quân đội, trong đợt tổng phản công chống Pháp. Sau thời gian rèn luyện ở phân hiệu Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn – Liên khu V, tôi về chiến đấu tại Đại đội 216, Tiểu đoàn 50, Trung đoàn 108, tham gia nhiều chiến dịch đánh Pháp ở mặt trận miền Trung, Tây Nguyên”.
Sau năm 1954, ông theo Trung đoàn 108 tập kết ra Bắc và giữ chức vụ chính trị viên tiểu đoàn. Ở đơn vị, ông thường mở lớp dạy kèm các môn như văn, toán, tiếng Pháp… cho các chiến sĩ. Thấy ông có trình độ văn hóa, năm 1957, Tổng cục Chính trị cử ông đi học lớp bồi dưỡng giáo viên trợ lý văn hóa. Kết thúc khóa học với tấm bằng loại giỏi, ông được phân công về dạy bổ túc văn hóa cho các đồng chí ở Tổng cục Chính trị, Hậu cần, Tham mưu… Trong quá trình giảng dạy, Tổng cục thông báo sẽ tuyển chọn hai người ưu tú nhất trong số gần 40 giáo viên đứng lớp để dạy văn hóa cho sáu vị tướng là Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Đại tướng Hoàng Văn Thái, Thượng tướng Song Hào, Trung tướng Lê Quang Đạo, Trung tướng Phạm Ngọc Mậu và Thiếu tướng Phạm Kiệt. Lúc này có rất nhiều ứng cử viên “đắt giá” mang học hàm, học vị cao vừa đi du học ở nước ngoài về tham gia tuyển chọn.
Cuối cùng, Tổng cục Chính trị quyết định chọn ông dạy hai môn lý, hóa và một người nữa dạy toán cho sáu vị tướng tại nhà riêng. “Khi biết mình được chọn làm giáo viên cho các vị tướng, tôi vừa mừng vừa run. Lúc đó tôi chỉ là một anh lính 25 tuổi, mang quân hàm thượng úy, còn họ đã là những tướng lĩnh nổi tiếng, chỉ huy hàng ngàn người. Trước mặt thủ trưởng, liệu tôi có đủ can đảm đứng lớp…” – ông Hòe tâm sự.
Sau một đêm trằn trọc, hôm sau ông mang giáo án đến lớp… nhận học trò. Buổi lên lớp đầu tiên của ông diễn ra tại nhà riêng Thiếu tướng Phạm Kiệt (116 Lý Nam Đế, Hà Nội) với đầy đủ sáu “ông học trò” mang quân hàm cấp tướng. Lần đầu đứng trình bày trước các vị tướng, anh giáo trẻ loay hoay không biết xưng hô thế nào cho phải phép. Nhớ lại giây phút đó, ông Hòe ngượng ngùng cười: “Mở đầu, tôi nói: “Mời sáu thủ trưởng mở sách vở chép bài, chúng ta bắt đầu buổi học”. Giọng nói tôi run run khiến các vị học trò phía dưới tủm tỉm cười. Thấy tôi xưng hô lúng túng, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đề xuất: “Theo tôi, khi vào lớp học, giáo viên gọi chúng tôi là anh. Còn chúng tôi gọi giáo viên là thầy. Khi ra thao trường thì trở lại là thủ trưởng và đồng chí”. Từ đó tôi mới mạnh dạn xưng hô và công việc đứng lớp diễn ra suôn sẻ”.
Thầy giáo – Đại tá Doãn Mậu Hòe. (Ảnh: Tấn Tài)
Video đang HOT
Gặp bài khó, trò cũng xoa đầu, bóp trán
Đại tá Doãn Mậu Hòe kể mỗi vị tướng – học trò có một đức tính riêng nhưng ai cũng kiên trì học hỏi. Dù bận việc quân, việc nước nhưng họ đều dành thời gian làm bài tập về nhà, đọc sách, tìm kiếm tài liệu đầy đủ theo yêu cầu của giáo viên. “Chỉ vì hoàn cảnh chiến tranh, đạn lửa mà các ông ấy phải dở dang đường học vấn, mình càng thương, càng quý họ hơn” – ông Hòe nói.
Nhớ về anh học trò, Thiếu tướng Phạm Kiệt, ông ngậm ngùi kể: “Thủ trưởng Kiệt tham gia cách mạng từ những buổi đầu kháng Pháp, bị tù đày, đánh đập nên trí nhớ bị ảnh hưởng. Tôi dạy chương trình lớp 3 và lớp 4 nhưng học trước, quên sau. Mỗi lần anh suy nghĩ căng thẳng thường xoa đầu, bóp trán và bảo đầu đau như búa bổ. Những lúc ấy tôi chỉ biết đến bên động viên, gợi nhắc bài học từng chút một. Trong một lần kiểm tra bài cũ, anh Kiệt chỉ nhớ được man mán nên tôi phải nhắc khéo, gợi mở. Khi trả lời hoàn chỉnh câu hỏi bài tập, anh ấy đã bật khóc òa và chạy đến ôm chầm lấy tôi và nói: “Thầy thông cảm, tôi mừng quá, vì lâu nay cứ sợ cái đầu không còn học được nữa”…”.
Trong số sáu người học trò thì Đại tướng Nguyễn Chí Thanh được thầy giáo Hòe đánh giá là thông minh và có lề lối làm việc khoa học nhất. Ông Hòe kể tướng Thanh giỏi đều các môn khoa học xã hội và nói tiếng Pháp rất sõi. Ngoài giờ học, thầy – trò lại đàm đạo chuyện văn chương, văn nghệ trong nước và quốc tế. “Những lần đi công tác xa, công việc ngập đầu nhưng anh Thanh vẫn dẫn tôi theo để tranh thủ học, không bỏ lỡ giữa chừng. Các bài tập tôi ra về nhà làm, anh đều hoàn thành một cách xuất sắc. Có lần đi kiểm tra một đơn vị quân đội về muộn, hai thầy trò bày bàn học ngay giữa thao trường, học đến gần nửa đêm mới quay về trại. Chỉ trong một thời gian ngắn, ông đã hoàn thành các chương trình hóa, lý cấp 3″ – ông Hòe nhớ lại.
Với mỗi người học trò, thầy Hòe có một cách truyền đạt riêng, dễ hiểu và gần gũi. Có hôm dạy môn hóa học cho Thượng tướng Song Hào và Trung tướng Lê Quang Đạo, ông đã bê nguyên một thau nước xà phòng vào lớp để thực hành tại chỗ. “Hồi ấy, các anh ấy thích vừa học vừa thực hành mới dễ hiểu, nhớ lâu nhưng dụng cụ thí nghiệm rất khó kiếm. Tôi phải mày mò tự chế hoặc lên thư viện mượn về dùng tạm. Riêng anh Đạo có một biệt tài là có thể chế tạo nhiều mô hình mạch điện để học. Tôi thường lấy mạch điện do anh Đạo lắp ráp, sáng chế để truyền dạy cho các học sinh khác” – ông Hòe kể.
“Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”
Năm 1965, khóa học kết thúc, chia tay những anh học trò đặc biệt, ông được điều động về dạy tại Trường Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi. Như một sự trùng hợp ngẫu nhiên, ông được phân công chủ nhiệm và trực tiếp giảng dạy cho các con trai của học trò cũ, đó là Hoàng Quốc Hùng, Hoàng Quốc Trinh – hai người con trai của tướng Hoàng Văn Thái.
Dù chỉ gắn bó với nhau hơn một năm nhưng tình cảm thầy trò giữa ông và các vị tướng thắm thiết. Ông giáo già ngấn lệ khi hồi tưởng về các học trò cũ của mình. Ông kể cứ vào dịp ngày Nhà giáo Việt Nam hằng năm, sáu anh học trò lại tổ chức một bữa cơm thân mật mời thầy giáo trẻ đến dự. Giữa bữa tiệc luôn đặt sẵn một lẵng hoa tươi, kèm theo những món quà nhỏ như hộp xà bông, kem đánh răng, chiếc khăn mặt… “Các anh ấy thay nhau chúc rượu, khiến tôi say túy lúy. Lúc về, anh Đạo và anh Song Hào còn đi hai bên cặp tay, dẫn tôi ra tận cổng”.
Khi ông chuyển công tác về Trường Thiếu sinh quân, các học trò cũ thỉnh thoảng vẫn ghé đến thăm thầy. Ông kể có lần tướng Hoàng Văn Thái xuống trường thăm hai con trai Hùng và Trinh nên yêu cầu ban giám hiệu xin được gặp thầy Hòe. Lúc này ông đang đóng quân xa trường hơn 1 km nhưng cũng đến hội ngộ với thủ trưởng – học trò cũ. Đêm ấy, bốn người ngồi trò chuyện đến khuya. Trước mặt hai con, tướng Thái dặn dò: “Các con ở lại cố gắng học tập thầy Hòe, ông vừa là thầy của cha cũng là thầy các con. Hai đứa phải biết tôn trọng, trọn đạo làm trò”. Quá nửa đêm, ba cha con đi bộ tiễn ông về tận đại đội…
Chiến tranh đi qua, ông tạm biệt những học trò cũ, chuyển về công tác tại Trường Quân sự Quân khu V. Trong hơn 40 năm khoác áo lính, đứng trên bục giảng, ông đã đào tạo nhiều thế hệ học sinh trở thành sĩ quan cao cấp, giữ nhiều chức vụ trọng yếu trong quân đội. Nhưng ký ức về sáu người học trò mang quân hàm cấp tướng vẫn luôn in đậm trong tâm trí của ông giáo già.
Theo Tấn Tài
Pháp luật TPHCM
GS-NGND, nhà văn Lê Trí Viễn: Một đời nặng chữ văn
Theo thầy: Dạy văn lấy cảm làm đầu/ Một đời tôi chỉ một câu dặn mình/ Dạy văn dạy nghĩa dạy tình/ Dạy văn mà cũng dạy mình dạy ta...
Gần trưa, điện thoại di động của tôi reo liên tục và nhận tin nhắn ào ạt. Tất cả chỉ một nội dung: Thầy chúng tôi, GS-NGND, nhà văn Lê Trí Viễn vừa trút hơi thở cuối cùng. Mới đây mấy ngày, PGS-TS Trần Hữu Tá, tôi và nhà giáo Nguyễn Thanh Văn đến thăm thầy, mừng thầy vẫn còn khang kiện, vẫn còn trò chuyện vui vẻ dẫu khi nhớ khi quên. Tết này, con trai thầy vừa xây xong căn nhà khang trang và dành cho thầy chỗ nghỉ, chỗ tiếp khách tốt nhất. Chúng tôi đều mừng cho thầy và tin thầy sẽ còn mạnh khỏe vài ba năm nữa là ít, vậy mà... Thầy ơi!
Tấm gương tự học
Đậu thành chung, thầy chọn nghề dạy học, nhưng văn chương Tự lực văn chương ngày đó "cứ như gan ruột" của lớp người mới xuất thân từ trường Pháp - Việt, và thầy thấy cần phải học thêm mới có thể bước chân vào làng văn. Tấm gương tự học của thầy, tôi nghĩ, những lớp người trẻ tuổi cần phải học tập. Ngày đó, trường thầy dạy có cụ Nguyễn Tường Đôn dưới Hội An lên dạy chữ Hán và thầy xin học. Cứ đều đặn mỗi tuần, thầy Đôn lên dạy là trả bài làm của "học trò" Lê Trí Viễn và ra bài làm mới.
giữa), PGS Trần Hữu Tá (bìa phải) cùng nhà văn - nhà báo Vu Gia, Xuân Nhâm Thìn 2012.
Chẳng bao lâu, thầy đọc được tân thư chẳng mấy khó khăn. Muốn thi tú tài (thí sinh tự do), thầy bèn nghỉ dạy, xin làm chân giám thị tại Trường Quốc học (Huế). Muốn học môn gì thì cứ đứng ở cửa sổ nghe thầy giảng, rồi đêm về tra lại sách vở. Môn tiếng Anh (sinh ngữ phụ) thì thầy theo học vị mục sư trong làng, ấy mà kỳ thi tú tài năm 1945, bài luận tiếng Anh, thầy viết chạy 8 trang giấy thi. Kết quả, thầy đỗ thủ khoa.
Khi kháng chiến bùng nổ, thầy được phân công đi dạy học. Thế là nghề giáo đeo theo thầy cho đến cuối đời. Lắm lần, thầy xin tổ chức chuyển ngành để theo đuổi nghiệp văn chương, nhưng không được. Vẫn bám trường, bám lớp, yêu nghề nhưng thầy không bỏ văn chương. Theo thầy: Dạy văn lấy cảm làm đầu/ Một đời tôi chỉ một câu dặn mình/ Dạy văn dạy nghĩa dạy tình/ Dạy văn mà cũng dạy mình dạy ta... Với thầy, đó cũng là một đời với văn.
Chữ nghĩa chưa thông thì chớ viết, chớ giảng
Mỗi lần đọc sách tôi biếu, thầy đều có ý kiến cụ thể từng câu, từng chữ sau một thời gian không lâu. Trong một lần trò chuyện, thầy kể có một thời, đồng nghiệp cho rằng thầy khó tính. Ngày đó thầy làm lãnh đạo Khoa Ngữ văn (Trường ĐH Sư phạm Hà Nội), thường gạch những chỗ sai trong văn bản của cán bộ trẻ, kể cả ở các đơn xin phép của sinh viên.
Khi gạch dưới những chữ sai, thầy giảng giải vì sao sai và đề nghị sửa tại chỗ. Thầy nói, thầy không khó tính nhưng đó là thói quen và phải truyền đạt thói quen đó cho nhiều người. Thầy giáo dạy văn, đứng trước một bài thơ, bài văn, nhất là văn thơ cổ, điều đầu tiên phải chú trọng tìm hiểu là chữ nghĩa. Chữ nghĩa chưa thông thì chớ viết, chớ giảng. Dĩ nhiên cũng có lúc phải... lờ đi, nhưng đó là vấn đề khác. Cái đáng sợ nhất là không hiểu mà tưởng hiểu.
Tôi nghĩ thầy cầu toàn mà nói thế thôi, chứ biết bao giáo trình, biết bao bài nghiên cứu khoa học, cứ sai đăng đăng đê đê ra đó, có ai đính chính gì đâu, và cũng có lắm người chép lại. Thầy dặn đi dặn lại hãy nghĩ kỹ trước khi viết, nếu muốn đi xa trong nghề. Thầy kể, lúc viết lại chương Nguyễn Khuyến trong Giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam (tập 4), thầy giật mình vì lâu nay vẫn đọc hai câu luận trong bài Nhớ cảnh chùa Đọi là Dặm thế ngõ đâu từng trúc ấy/ Thuyền ai khách đợi bến đâu đây, trong lúc nó phải là Dặm thế ngõ đâu từng trúc ấy/ Thuyền ai khách đợi bến dâu đây. Lỗi chỉ một cái dấu: dâu thành đâu, nhưng vì âm vang câu thơ rất hay nên bị tê liệt cảnh giác, không đặt vấn đề thắc mắc gì cả...
Những lời dạy của thầy, con luôn đưa vào cuộc sống, nhưng vẫn chưa thấm vào đâu. Bây giờ, nghĩ về thầy, nhớ về thầy nhưng thầy đâu còn nữa. Thầy ơi!
GS-NGND, nhà văn Lê Trí Viễn sinh ngày 10-3-1918, tại xã Điện Hồng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông từng giảng dạy tại Trường ĐH Bắc Kinh (Trung Quốc), ĐH Sư phạm Hà Nội, ĐH Sư phạm TPHCM. Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, Huân chương Lao động hạng nhất. Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1971). Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2012.
Theo Vu Gia
Người Lao Động
Vĩnh biệt thầy của những bậc thầy Gần trưa 3/2, mấy đồng nghiệp đã liên tiếp gọi điện thoại bằng một giọng thảng thốt, buồn thương, báo cho tôi biết tin giáo sư - nhà giáo nhân dân Lê Trí Viễn vừa mới từ trần. Tôi thật sự bàng hoàng, vì mới đây - những ngày giáp Tết Nhâm Thìn, tôi và hai bạn văn Vu Gia - Nguyễn Thanh...