Người quản nội trưởng trên khu trục hạm HQ-4
Không lâu sau cuộc hải chiến Hoàng Sa năm 1974, người quản nội trưởng trên khu trục hạm HQ-4 ấy trở về với quê hương, ruộng vườn. Mặc dù 40 năm đã qua đi, ký ức về trận hải chiến bi hùng để bảo vệ biển đảo của tổ quốc vẫn chưa bao giờ nguôi trong ông.
Chuyên đề: 40 năm hải chiến Hoàng Sa
“Dù trở về trong tình thế thất trận nhưng lòng vẫn có chút an ủi rằng mình đã làm hết sức, can đảm chống lại Trung Quốc lúc ấy có phần mạnh hơn và rất hung hãn”, ông Dục tâm sự
Ông là Trần Dục, hiện ở xóm 11, làng Mậu Tài, xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Ký ức bi hùng
Ông Trần Dục năm nay đã 73 tuổi, nhập ngũ vào Hải quân Việt Nam Cộng Hòa khi mới 23 tuổi, lúc vừa học xong lớp 11 ở Trường Quốc học Huế. Trải qua nhiều đơn vị hải quân khác nhau, năm 1971, ngay sau khi tham gia huấn luyện tại Hawaii (Mỹ) trở về, ông Dục được biên chế làm nhiệm vụ trên khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4), một trong hai khu trục hạm tối tân nhất lúc bấy giờ của hải quân VNCH (cùng với HQ-1 Trần Hưng Đạo).
“Ngày 15.1.1974, khi chúng tôi đang làm nhiệm vụ tuần tiễu gần đảo Lý Sơn thì nhận được thông tin Trung Quốc đang đe dọa quần đảo Hoàng Sa của mình. Sau đó, chúng tôi được lệnh từ Sài Gòn lập tức trực chỉ Hoàng Sa để bảo vệ đảo”, ông Dục nhớ lại.
Khu trục hạm HQ-4 lúc ấy có quân số khoảng 170 thủy thủ do trung tá Vũ Hữu San làm hạm trưởng, ông Dục là thượng sĩ nhất, giữ chức vụ quản nội trưởng. Khởi hành từ Đà Nẵng, sau khoảng 10 tiếng đồng hồ, khu trục hạm HQ-4 đã đến được vùng biển Hoàng Sa.
Trước trận hải chiến, phía Việt Nam có 4 chiếc gồm HQ-4, HQ-5 (tuần dương hạm Trần Bình Trọng), HQ-10 (hộ tống hạm Nhật Tảo) và HQ-16 (Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt). Lúc đó chỉ huy chiến dịch là đại tá hải quân Hà Văn Ngạc ở trên chiếc HQ-5. Phía Trung Quốc có 4 chiến hạm, ngoài ra còn có hai ngư thuyền có vũ khí được ngụy trang.
“Khi phát hiện tàu phía Trung Quốc chiếm giữ trái phép đảo của mình, chúng tôi đã phát quang hiệu, bật đèn để ra hiệu họ dời đi nhưng họ cũng ra hiệu lại và không chịu đi. Sau nhiều lần chúng tôi buộc dùng tàu lấn (đẩy) tàu họ đi ra xa đảo và họ cũng dùng tàu lấn lại nên xảy ra những cuộc va chạm thân tàu khá gây gắt. Dùng dằng như vậy trong hai ngày liên tiếp, tình hình rất căng. Lính chúng tôi phải túc trực trên các ổ súng. Chẳng hạn mỗi ổ súng là 10 người thì ăn uống chi cũng tại chỗ, không rời nhiệm vụ, tư thế luôn sẵn sàng chiến đấu. Đạn đã lên nòng cả!”, ông Dục kể tiếp.
Cũng theo ông Dục, khoảng 17 giờ ngày 18.1.1974, các hạm trưởng tham gia một cuộc họp hành quân tại soái hạm HQ-5 dưới sự chủ trì của đại tá Hà Văn Ngạc. Sáng 19.1.1974, lực lượng biệt hải với 27 người đổ bộ lên đảo để thay cờ Trung Quốc bằng cờ của Việt Nam Cộng Hòa và bảo vệ đảo nhưng không thực hiện được. Tiếp đó, (cũng trong sáng 19.1.1974), khoảng 17 người nhái trên tàu HQ-4 mang theo vũ khí tăng cường đổ bộ lên đảo.
“Thế nhưng khi lực lượng người nhái chưa trồi lên khỏi mặt nước thì bị phía Trung Quốc xỉa súng liền. Rứa là chết một thiếu úy, bị thương một trung sĩ”, ông Dục nhớ lại.
Video đang HOT
Ngay sau khi phía Trung Quốc dùng vũ lực và gây ra tử thương, lệnh rút quân trên đảo về HQ-4 được ban hành. Khi lực lượng biệt hải và người nhái lên hết trên khu trục hạm HQ-4 thì lệnh chiến đấu được ban hành và phía hải quân Việt Nam Cộng Hòa chính thức khai hỏa. Lập tức phía Trung Quốc phản kích và cuộc hải chiến chính thức diễn ra ác liệt trong cự ly giữa hai phía chỉ trong khoảng 100 mét.
Kể đến đoạn này, ông Dục không thể nhớ gì nhiều hơn là tiếng súng nổ, người tử trận, bị thương giữa hai bên. “Tôi lúc ấy phụ trách điều hành toán phòng tai, như cấp cứu người bị thương, chữa cháy, bơm nước ra ngoài và chắn lỗ thủng, điều phối người tiếp đạn… Tôi còn nhớ rất rõ là thiếu úy Vân phụ trách cây súng 20 ly ở sân sau của tàu bị thương rất nặng. Tôi khiêng chú ấy xuống phòng để cấp cứu và điều thiếu úy Xá đến thay vị trí của Vân, nhưng ngay sau đó anh Xá cũng mất do trúng đạn, tay vẫn bám chặt trên khẩu 20 ly!”, ông Dục kể, giọng đượm buồn.
Trở về quê sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, ông Dục thường theo dõi đến tình hình biển đảo trên báo chí, truyền hình
Trở về trong nỗi dằn vặt
Cũng theo ông Dục, cuộc hải chiến xảy ra trong khoảng 30 phút và các tàu được lệnh rút quân. Cả hai bên đều thương vong, tổn thất nặng nề. Bên nào cũng có người mất, bị thương, tàu cháy và chìm. Riêng phía hải quân Việt Nam Cộng Hòa thì HQ-16 bị trúng đạn và nghiêng khoảng 30 độ. Đặc biệt tổn thất nặng nề nhất là hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10) bị trúng đạn và chìm. Thời điểm ấy trên HQ-10 có khoảng 115 thủy thủ, do thiếu tá Ngụy Văn Thà làm hạm trưởng và ông cũng hy sinh cùng với nhiều chiến sĩ khác sau trận hải chiến bảo vệ biển đảo của Tổ quốc (ông được truy vong trung tá).
Kể lại câu chuyện quyết chiến bảo vệ biển đảo cách nay 40 năm, thi thoảng ông Dục dừng lại thật lâu. Có khi ông đứng dậy đi pha ấm trà mới, dù chén trà trên bàn còn khá đậm. Anh Trần Hải Cường, người con út đã có gia đình của ông Dục năm nay ngoài 40 tuổi, nói rằng sau khi đất nước thống nhất, ba anh trở về với ruộng vườn, miệt mài chăm chỉ trên 8 sào ruộng để nuôi vợ và năm người con.
“Cuộc hải chiến bảo vệ Hoàng Sa ba thường kể lại trong nhà, với vợ con, với cháu chắt. Kể riết rồi hình như mình cũng thuộc lòng từ số tàu, từng tình tiết. Mỗi khi kể, mình luôn cảm nhận được sự dằn vặt vẫn còn đó trong ông”, anh Cường nói.
Nghe thế, ông Dục nhấp ngụm trà rồi giải thích với tôi, rằng làm sao không thể không dằn vặt khi trách nhiệm một người lính, một người con dân Việt Nam để kẻ thù dùng vũ lực chiếm đảo chiếm biển ngay trước mắt mình. Làm sao có thể yên lòng khi những người lính, đồng đội của ông tử trận, gương mặt cứ hiện hữu trong ông dù đã 40 năm trôi đi.
Đó là thiếu úy Vân, hạ sĩ Danh – người bị thương nặng đã trút hơi thở ngay trên tàu dù các y tá cố gắng cứu chữa. Ông cũng đã vuốt mắt cho người hạ sĩ ấy như tỏ lòng thấu hiểu về sứ mệnh của mỗi con dân Việt Nam trong cuộc chiến bảo vệ bờ cõi của đất nước.
Hay riêng ông, trong trận hải chiến ấy, ông may mắn chỉ bị một vết thương nhẹ trên lòng bàn tay, nhưng nó cũng đủ là một chiếc sẹo để mỗi ngày cầm cuốc ra đồng hay rửa mặt đều thấy nó, để rồi ông luôn nhắc nhở, dạy bảo cháu con về câu chuyện bảo vệ biển đảo của Tổ quốc.
Ông Dục cũng nhớ như in rằng lúc nhận lệnh rút lui và sau khi về đất liền thì một hai hôm sau tàu HQ-4 của ông được lệnh ra biển để tìm kiếm thi thể của đồng đội. Cuộc tìm kiếm diễn ra khá đơn độc và đã không tìm được thi thể nào ngoài vô vàn áo mũ của các chiến sĩ nổi trôi. Điều đó lại dấy lên sự dằn vặt trong ông lần nữa.
Nay, dù trong thời bình, thi thoảng đêm đêm nước mắt ông lại trào…
Theo TNO
Vì sao Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa
Chỉ một tuần sau chuyến công du của Ngoại trưởng Henry Kissinger, thấy rõ ý định "bỏ rơi" của Mỹ cũng như các điều kiện bất lợi với Việt Nam Cộng hòa, Trung Quốc đã điều chiến hạm ra cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa.
40 năm trước, ngày 19/1/1974, một biến cố trọng đại trong lịch sử Việt Nam hiện đại đã diễn ra - hải chiến Hoàng Sa giữa Hải quân Việt Nam Cộng hòa và Hải quân Trung Quốc. Sau trận chiến, quần đảo Hoàng Sa - một bộ phận thiêng liêng và không thể tách rời của Việt Nam đã bị Trung Quốc chiếm giữ.
Thạc sĩ Nguyễn Hùng Cường (Viện Nghiên cứu Khoa học Biển và Hải đảo), đã có bài viết tái hiện những sự kiện chính diễn ra trước, trong và sau trận hải chiến:
Suốt nhiều thế kỷ, Việt Nam đã chiếm hữu thật sự, hòa bình và công khai quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa khi các quần đảo đó chưa thuộc chủ quyền bất cứ quốc gia nào. Từ thế kỷ XVII, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện hiệu quả chủ quyền với hai quần đảo này và luôn bảo vệ các quyền, danh nghĩa của mình trước mưu đồ và hành động xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền lợi của Việt Nam với hai quần đảo thiêng liêng của mình.
Đầu thế kỷ XX, nhận thấy vị trí chiến lược cũng như tầm quan trọng của biển Đông nói chung và quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa nói riêng, một số quốc gia (điển hình là Trung Quốc) đã xâm chiếm bất hợp pháp các vùng lãnh thổ này của Việt Nam.
Trung Quốc luôn coi biển Đông, đặc biệt là các quần đảo của Việt Nam là bàn đạp quan trọng để thực hiện chiến lược bành trướng xuống Đông Nam Á. Vì vậy, giới cầm quyền Trung Quốc từ Trung Hoa Dân Quốc cho đến Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã không ngừng đẩy mạnh thực hiện âm mưu độc chiếm biển Đông.
Lợi dụng tình hình rối ren khi Nhật đầu hàng đồng minh và việc giải giáp quân Nhật theo Hiệp định Postdam 1945, Trung Hoa Dân Quốc đã đem quân chiếm giữ đảo Phú Lâm (quần đảo Hoàng Sa) và đảo Ba Bình (quần đảo Trường Sa) vào cuối năm 1946. Sau đó Trung Hoa Dân Quốc rút quân khỏi Hoàng Sa, và Nhật rút quân khỏi quần đảo này theo Hòa ước San Fransisco 1951. Sau khi Hiệp định Geneva 1954 được ký kết, Pháp rút khỏi Đông Dương, ngày 21/1/1956 Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đưa quân chiếm đóng đảo Phú Lâm và Lin Côn.
Năm 1974, nhận thấy thời cơ đã chín muồi, Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực toàn bộ nhóm đảo Trăng Khuyết phía tây nam quần đảo Hoàng Sa. Thời cơ này xuất phát từ tình hình, bối cảnh quốc tế và trong nước.
Đầu thập niên 1970, phong trào phản đối chiến tranh tại Việt Nam diễn ra sôi nổi và rộng khắp trên thế giới khiến Mỹ ngày càng xa lánh Việt Nam Cộng hòa; đặc biệt sau khi ký kết Hiệp định Paris ngày 27/1/1973, Hoa Kỳ và các lực lượng đồng minh phải rút quân khỏi Việt Nam. Do không muốn tham gia vào một cuộc chiến đã bước vào hồi kết, tháng 6/1973 Lưỡng viện Hoa Kỳ đã thông qua đạo luật "Case-Church" cấm cơ quan hành pháp nước này tái can thiệp quân sự vào ba nước Đông Dương trừ khi được chấp thuận của Lưỡng viện.
Ngoài ra, Mỹ được cho là có một "toan tính" sâu xa hơn khi không can dự vào trận Hải chiến 1974 vì khi đó, Việt Nam và Trung Quốc đều đi theo con đường Xã hội chủ nghĩa. Việc Washington "làm ngơ" cho Bắc Kinh ngang nhiên chiếm Hoàng Sa sẽ tạo thù địch giữa Hà Nội và Bắc Kinh, dẫn đến chia rẽ giữa các nước cộng sản. Khi người "bảo trợ" đã ra đi, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa rơi vào tình thế đơn độc và bất lợi trong cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa.
Cuộc đụng độ biên giới năm 1969 mang lại cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Hoa (PLA) niềm tin rằng họ có thể chống trả Hồng quân Liên Xô. Từ đó, Trung Quốc bắt đầu thực hiện sáng kiến đối ngoại mới bằng cách thúc đẩy quan hệ hữu nghị với Mỹ, cao trào là chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Richard Nixon tháng 2/1972. Sau chuyến công du đó, Trung Quốc trở thành "đồng minh giai đoạn" của Mỹ để kìm chân và chống lại Liên Xô. Mỹ không muốn quan hệ chiến lược này bị rạn nứt vì vụ Hoàng Sa. Việc lựa chọn giữa "đồng minh cũ" hay "người bạn mới" trong "thời kỳ trăng mật" này không phải là sự lựa chọn khó khăn đối với Mỹ.
Ngoại trưởng Kissinger trong chuyến thăm Trung Quốc. Ảnh tư liệu
Thực tế, trong trận Hải chiến Hoàng Sa chính quyền Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã nhiều lần thông báo tình hình với Đại sứ quán Mỹ nhưng Washington đã không có động thái hỗ trợ nào.
Trên vùng biển Đông ngoài khơi Việt Nam gần với đảo Hải Nam (Trung Quốc) và Hoàng Sa (Việt Nam) thời điểm đó có mặt Hải đoàn 77 (Task Force 77) của Hải quân Mỹ gồm các hàng không mẫu hạm và các chiến hạm yểm trợ. Hải đoàn này đủ khả năng kiểm soát không và hải phận, cũng như hoạt động của các tàu ngầm trong vịnh Bắc Bộ. Tuy nhiên, Mỹ đã hoàn toàn đứng ngoài cuộc.
Cũng thời điểm đó, Việt Nam Cộng hòa mới chỉ là quan sát viên mà chưa phải thành viên của Liên Hợp Quốc trong khi Trung Quốc là một trong 5 nước ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an. Vị thế quốc tế của Trung Quốc khiến nước này tự tin rằng, Việt Nam Cộng hòa không có đủ tư cách sử dụng các cơ chế để tự vệ và bảo vệ Hoàng Sa theo các điều khoản của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Ngày 30/1/1974, Lãnh sự quán Mỹ ở Hồng Kông đã báo cáo về Bộ Ngoại giao và Đại sứ quán Mỹ ở các nước liên quan về những tính toán của Trung Quốc trong việc thôn tính quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Cơ quan này nhận định, Trung Quốc đã có ý đồ đánh chiếm Hoàng Sa từ trước.
Theo phân tích của lãnh sự quán Mỹ, quyết định đánh chiếm Hoàng Sa phụ thuộc vào một số yếu tố như tiềm năng về dầu khí tại khu vực, lo ngại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thể đưa ra tuyên bố chủ quyền ở Hoàng Sa cũng như lợi ích chiến lược về lâu dài của quần đảo.
Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng có thể lo sợ việc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ không tiếp tục giữ thái độ im lặng trước vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa. Bằng việc sử dụng vũ lực, Trung Quốc đã tránh tình huống nguy hiểm hơn nhiều sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ra tuyên bố chủ quyền về Hoàng Sa. Điều này đã được Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tiến hành sau khi đất nước thống nhất.
Theo nhận định trong các hồ sơ ngoại giao được giải mật, nỗi lo sợ ngày càng lớn của Trung Quốc trước hoạt động của hải quân Liên Xô tại biển Đông và các vùng biển khác ở châu Á có thể là yếu tố dẫn đến quyết định của Trung Quốc. Đây là thời kỳ đỉnh điểm rạn nứt quan hệ Xô - Trung liên quan đến tranh chấp lãnh thổ dọc biên giới hai nước, cũng như các vấn đề Nam Phi, Trung Đông và Đông Dương.
Trong lúc nhiều yếu tố bên ngoài nghiêng về hướng có lợi cho một cuộc chiến chớp nhoáng của Trung Quốc thì bối cảnh trong nước cũng hết sức bất lợi cho Việt Nam Cộng hòa khi Lưỡng viện Mỹ giảm dần viện trợ từ 1,4 tỷ USD năm 1972 xuống 1 tỷ USD năm 1973 và 700 triệu USD vào năm 1974. Quân đội Việt Nam Cộng hòa dần rơi vào thế thụ động vì thiếu nhiên liệu, vũ khí. Bất lợi hơn là ý định "bỏ rơi" miền Nam Việt Nam của Mỹ. Tình trạng phân chia Bắc - Nam cũng là một trở ngại cho phía Việt Nam Cộng hòa trong trận hải chiến 1974.
Lợi dụng bối cảnh đó, Trung Quốc đã không e ngại khi điều động chiến hạm đến cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa.
Nguyễn Hùng Cường
Theo VNE
Câu chuyện của người lính trong trận tử thủ trên đảo Hoàng Sa lớn 40 năm sau trận chiến ở Hoàng Sa, các cựu binh tham chiến ngày xưa giờ đã già yếu. Suốt bao năm qua, họ là những chứng nhân lịch sử thầm lặng. Những câu chuyện của họ giá trị hơn bất cứ cuốn sách giáo khoa nào... PV Dân trí tại Huế đã có cuộc gặp gỡ với một trong các cựu binh...