Người Nhật dạy học sinh tiểu học như thế nào?
Giáo viên Nhật quan niệm lớp học càng đông, việc dạy học càng hiệu quả; ở Phần Lan, trẻ em bắt đầu đi học lúc 7 tuổi, trễ hơn các nước khác, New Zealand cho học sinh sử dụng Internet từ lúc 5 tuổi, học trò Singapore cùng được học nhiều ngôn ngữ khác nhau…
Phần Lan: Tự do sáng tạo
Ở Phần Lan, trẻ em đi học muộn hơn (lúc 7 tuổi) so với trẻ em hầu hết các nước khác và bài tập về nhà cũng ít hơn so với học sinh ở châu Á, Mỹ. Tuy nhiên, họ luôn dẫn đầu về lĩnh vực văn học, toán và khoa học.
Trẻ em Phần Lan thỏa sức sáng tạo tại nhà trẻ và trường học
Giáo viên ở đây luôn tìm cách tiếp cận nhẹ nhàng, ít tạo áp lực cho học sinh. Bob Compton – tác giả loạt phim tài liệu The Finland Phenomenon: Inside the World’s Most Surprising School System(tạm dịch: Hiện tượng Phần Lan: Bên trong hệ thống giáo dục đáng ngạc nhiên nhất thế giới) – nói: “Trong lớp học người Phần Lan, bạn sẽ thấy rất nhiều hoạt động tay chân như vẽ, nhào nặn đất sét, chơi nhạc…. Lớp học khá nhỏ, mỗi lớp có 2 giáo viên”.
Trẻ em dưới 7 tuổi không ghi danh lớp học nhưng các em có thể đến các trung tâm chăm sóc trẻ để chơi các trò chơi sáng tạo và được dạy các kỹ năng xã hội cần thiết. Giáo viên Phần Lan đòi hỏi phải có chuyên môn, phải trải qua 1 năm được đào tạo, giám sát chuyên môn sau khi thi tốt nghiệp.
Singapore: Giáo viên xuất sắc
Dạy học là nghề có địa vị cao nhất ở đất nước này. Những sinh viên thuộc tốp 3 trong ở trường đại học thường được các nhà tuyển dụng tin dùng. Ngoài ra, các giáo viên trẻ này phải hoàn thành khóa học đặc biệt trước khi đứng lớp. Trong suốt thời gian công tác, giáo viên thường xuyên bị kiểm tra kiến thức về trẻ em như trẻ học, lớn và phát triển như thế nào.
Video đang HOT
Học sinh ở Singapore được học nhiều ngôn ngữ
Singapore luôn đứng đầu thế giới về toán học, khoa học, văn học… Khác với Phần Lan, quốc đảo này sẵn sàng cho trẻ học chữ sớm ngay từ trường mẫu giáo để chuẩn bị lên lớp 1. Ngôn ngữ kinh doanh của Singapore là tiếng Anh nhưng trẻ em nước này nói được cả tiếng Quan thoại, Malaysia, Tamil như ngôn ngữ thứ hai, một số khác còn học ngôn ngữ thứ 3, thứ 4 tại trường. Tuy nhiên, hệ thống giáo dục nước này không dạy trẻ học thuộc vẹt, riêng đạo đức và công dân là 2 môn bắt buộc trong trường học.
New Zealand: Sử dụng Internet lúc 5 tuổi
Khi lên lớp 3, học sinh New Zealand có thể tự đăng bài viết và hình vẽ một cách động lập lên mạng
Ở New Zealand, bạn không phải lo lắng về việc nên bắt đầu cho con sử dụng mạng Internet lúc bao nhiêu tuổi vì ở đây, trẻ em trao đổi bài vở qua mạng khi còn rất nhỏ.
Học sinh ở Singapore được học nhiều ngôn ngữ
“Trẻ bắt đầu sử dụng công nghệ khi mới lên 5. Ở tuổi này, chúng vẽ được các chương trình độ họa đơn giản và gửi lời chú thích cho giáo viên. Khi lên lớp 3, học sinh có thể tự đăng bài viết và hình vẽ một cách động lập lên mạng. Viết blog là một cách để mỗi học sinh có tiếng nói riêng”, Sarah McPherson, Trưởng Khoa Công nghệ giảng dạy ở Viện Công nghệ New York, người mới có chuyến thăm các trường New Zealand, cho biết.
Nhật: Càng đông càng trật tự
Đáng ngạc nhiên là người Nhật quan niệm rằng lớp học đông (khoảng 28 em/lớp, ở Mỹ 23 em/lớp) sẽ là môi trường học tập hiệu quả. Khi một giáo viên hướng dẫn một lớp đông các em nhỏ là họ đang tạo điều kiện cho các đồng nghiệp còn lại có thời gian nghiên cứu, soạn bài, dạy kèm những học sinh cá biệt.
Trẻ em Nhật cạnh tranh ở mọi cấp độ, bắt đầu với cuộc chiến hòa nhập và học hỏi sau khi rời trường mẫu giáo
Verna Kimura, một nhà tư vấn giáo dục đã sống và giảng dạy tại Nhật hơn 20 năm, nói: “Lớp học đông hơn so với ở Mỹ và giáo viên toàn quyền kiểm soát. Bọn trẻ cạnh tranh ở mọi cấp độ, bắt đầu với cuộc chiến hòa nhập và học hỏi sau khi rời trường mẫu giáo. Người Nhật tin rằng những thói quen hình thành trong những năm đầu đến trường sẽ theo chúng khi lớn lên. Khi mới 6-7 tuổi, bọn trẻ được dạy cụ thể về kỹ năng làm bài thi, chẳng hạn như cách sử dụng phương pháp loại trừ để tìm câu trả lời chính xác. Theo nhà tư vấn giáo dục Kimura, cách tiếp cận này có vẻ áp lực nhưng không khí căng thẳng sẽ giúp các em xây dựng tính trật tự, bền bỉ và trách nhiệm”.
Theo Trithuc
Chấm dứt 'thí điểm' - Kỳ 2: Tìm phương thức dạy học mới
Với những ưu điểm trong việc dạy tiếng Việt, theo Bộ GD-ĐT, nếu áp dụng thành công công nghệ giáo dục, thì đây là một trong những phương thức dạy học hướng đến trong đổi mới chương trình - sách giáo khoa sau năm 2015.
Học sinh học tốt tiếng Việt là một trong những ưu điểm nổi trội của chương trình công nghệ giáo dục - Ảnh: Lê Đăng Ngọc
Tiếp cận tiếng Việt rất thoải mái
Theo các giáo viên giảng dạy công nghệ giáo dục (CNGD), điểm nổi bật nhất của chương trình này là học sinh (HS) nắm chắc quy luật chính tả, đặc biệt không quên sau khi nghỉ học thời gian dài.
Đây là năm đầu tiên Trường tiểu học Âu Cơ, TP Rạch Giá, Kiên Giang thực hiện chương trình CNGD. Hiệu trưởng Trần Thị Liên cho hay: "Điều dễ nhận thấy nhất là HS tiếp cận với việc học tiếng Việt rất thoải mái, không bị gò ép như chương trình hiện hành - vào lớp 1 là phải học chữ cái ngay". Bà Liên nói thêm: "Tuần đầu tiên là "tuần 0 để HS làm quen, tạo tâm lý thoải mái nên dù chúng tôi đang vào chương trình chậm hơn các trường khác một tuần nhưng không hề lo lắng gì cả".
Cà Mau cũng có hơn 10 trường áp dụng CNGD. Ông Lê Hoàng Dự, Trưởng phòng GD-ĐT H.Thới Bình, nơi 2 trường áp dụng chương trình, thông tin: "Năm ngoái phụ huynh e dè, phản ứng, nhưng năm nay nhiều người lại gặp chúng tôi yêu cầu thực hiện tiếp ở lớp 2, lớp 3 vì họ thích quá". Cùng chung nhận định này, bà Nguyễn Thị Lan, giáo viên lớp 1, Trường tiểu học A Khánh Bình Tây, H.Trần Văn Thời, Cà Mau, chia sẻ: "Chín năm dạy lớp 1, trong đó 3 năm dạy theo CNGD tôi phải khẳng định là mình thích dạy CNGD hơn mặc dù giáo viên vất vả hơn nhiều". Dạy chương trình này, giáo viên phải tận tâm, làm kỹ từng bước một để HS biết được chữ nào là nhớ chữ đó. Qua một kỳ hè dù không "sờ" đến sách vở nhưng khi trở lại trường, HS vẫn rất nhớ, không "trả chữ" lại cho thầy.
Do CNGD chỉ mới thực hiện ở lớp 1 nên HS học chương trình này xong, lên lớp 2 phải theo chương trình chung hiện hành. Tuy nhiên, cũng theo bà Lan: "HS học xong tiếng Việt 1 - CNGD, lên lớp 2 vẫn hoàn toàn có thể theo được chương trình hiện hành mà không gặp khó khăn gì về mặt kiến thức. Giáo viên lớp 2 phản ánh tiếp nhận HS lớp 1 theo CNGD rất thuận lợi".
Không cần học thêm, học trước
Ông Dương Văn Bổ, Trưởng phòng Giáo dục tiểu học, Sở GD-ĐT Vĩnh Phúc, cho rằng: "Quan trọng là chúng tôi thấy nó đổi mới được phương pháp dạy học". Ông Bổ giải thích chương trình hiện hành dạy theo phương thức thầy giảng, trò ghi nhớ - thầy giáo là nhân vật trung tâm. CNGD thì thầy thiết kế, trò thi công - chuyển nhân vật trung tâm từ giáo viên sang HS.
Hầu hết giáo viên dạy chương trình này đều cho rằng luôn đặc biệt lưu ý phụ huynh không dạy trước cho con ở nhà vì như thế là làm hỏng việc tiếp thu bài mới của trẻ. Giáo sư Hồ Ngọc Đại, "cha đẻ" của CNGD, giải thích: "Mục đích khi thiết kế CNGD là ngoài giờ học cho ra học, phải cho trẻ chơi thoải mái - không cần học thêm, không cần học ở nhà. Học trước thì có hại nên không phải học trước, phụ huynh được giải phóng, không phải kè kè làm bài tập ở nhà với con". Để thực hiện được điều này, theo Giáo sư Đại, phải biên soạn sách thật kỹ. Ông giải thích: "Bộ sách này được viết từ năm 1978. Đến nay không sai đến cái dấu phẩy. Tôi kiểm tra chi li từng chi tiết một, từng cái dấu phẩy. Sản phẩm cho trẻ con là không được thiếu sót".
Cũng theo Giáo sư Đại, năm nay sau khi triển khai đại trà đối với lớp 1, bộ bắt đầu thí điểm đối với lớp 2 ở khoảng 3 - 4 tỉnh. Những năm sau sẽ lần lượt triển khai theo lộ trình như vậy.
Với những ưu điểm này trong việc dạy và học tiếng Việt, bà Trần Thị Thắm, Phó vụ trưởng Vụ Giáo dục tiểu học, Bộ GD-ĐT, cho hay: "CNGD không còn là thí điểm nữa". Bà Thắm phân tích: "Có thể hiểu là chúng ta đang tiến hành song song bộ tài liệu dạy tiếng Việt cho học sinh lớp 1. Trường nào dạy cái này thì thôi cái kia. Việc đánh giá vẫn theo chuẩn kiến thức kỹ năng của chương trình hiện hành". Từ thực tế này, các trường sư phạm đã tiến hành nghiên cứu về bộ tài liệu CNGD để đưa vào chương trình đào tạo giáo viên.
Lãnh đạo Bộ GD-ĐT cũng cho rằng nếu việc áp dụng thành công, đây sẽ là một trong những phương thức dạy học được hướng đến trong đổi mới chương trình - sách giáo khoa sau 2015.
Theo TNO
Giáo viên được nhận 70% tiền dạy thêm Tiền học thêm tại Hà Nội được dùng để chi trả cho giáo viên giảng dạy 70%, công tác quản lý dạy thêm của trường 15% và điện, nước, vệ sinh 15%.. UBND TP Hà Nội vừa ban hành Quyết định quy định về dạy thêm, học thêm trên địa bàn. Theo đó, Chủ tịch thành phố ủy quyền cho Giám đốc Sở...