Người mẹ dân tộc J’rai của nhiều đứa con nhỏ
Sinh ra và lớn lên ở mảnh đất Chữ Par (Gia Lai), cô giáo Siu H Phưl chọn gắn mình với nghề dạy trẻ mầm non miền núi. Gần 30 năm trong nghề, “người mẹ” của biết bao nhiêu đứa trẻ đã có phút trải lòng về những thăng trầm trong cuộc đời dạy trẻ của mình.
Tốt nghiệp Trường Trung cấp Sư phạm Gia Lai, người con gái J’rai trở về địa phương bắt đầu công việc dạy học. Tuy nhiên những ngày mới bắt đầu đi làm, mảnh đất nơi cô giáo trẻ ước mơ được dạy các em bé lại không có trường học. Bất đắc dĩ không còn sự lựa chọn nào khác, cô đã cùng một số phụ huynh khác dọn dẹp lại một khu chuồng bò cũ từ thời bao cấp để lấy không gian cho các em. Bàn ghế ngày đó cũng không có nên các bé phải ngồi hết ở dưới sàn nhà có lát lá cây rừng, khiến cô giáo lúc nào cũng thương các em lạnh.
Về dạy học, mong muốn lớn nhất của cô Siu H Phưl đó là tất cả các em bé sẽ được đến trường thay vì việc theo bố mẹ lên rẫy. Tuy nhiên mong muốn đó không hề dễ dàng bởi đồng bào vẫn còn nặng suy nghĩ “tự dạy dỗ con cái sẽ tốt hơn là đến trường” nên nhiều lần cô phải đến tận nhà động viên và giải thích. Vì thế nên “Dù có nói thế nào đồng bào vẫn không cho con đi học vì họ sợ con họ bị làm hại” – cô Siu H Phưl tâm sự. Những ngày đầu, lớp học chỉ lác đác một vài em, còn phần nhiều các em vẫn phải theo bố mẹ lên nương rẫy.
Gần 30 năm dạy trẻ, cô giáo Siu H Phưl càng yêu và gắn bó với nghề hơn.
Gần 30 năm trong nghề, hình ảnh những đứa trẻ lấm lem tự chơi một mình trên nương như một nỗi ám ảnh với cô bởi: “Mình có chuyên môn có thể dạy cái chữ cho các em, mà các em lại không được đến lớp” – cô giáo trải lòng. Vì thế có những lúc cô đã nản và không còn niềm tin sẽ “lôi kéo” được các em đến trường, nhưng niềm vui bất ngờ đã đến khi chỉ một thời gian ngắn sau chính người dân tự đến trường xin cho con học. Giây phút đó được cô ví “là phút sung sướng và hạnh phúc nhất trên đời” vì mình đã thỏa ước nguyện bấy lâu nay.
Nói chuyện với người đồng bào, cô Siu H Phưl mới biết lý do để họ có quyết định này đó là “muốn con của mình cũng giỏi như các em bé khác được đi học”. Thì ra ban ngày họ lên nương, lên rẫy nhưng tối về vẫn để ý những em bé nhà người khác đã được đến trường. Các em biết nói tiếng Kinh, biết cái chữ, biết các con số khiến những người lớn vô cùng ngạc nhiên và có sự so sánh với những em bé không được đến trường. Nhờ đó mà người dân tự thấy việc đưa con em mình đến lớp học của cô Siu H Phưl là tốt nên đã tự đến xin học. Từ đấy lớp học của cô giáo dân tộc J’rai rộn ràng nhiều tiếng nói cười của con trẻ hơn và cô giáo cũng thêm “say” và yêu nghề hơn.
Video đang HOT
Những bài học đầu tiên khi cô dạy các em bé từ “con gà”, “quả đu đủ” hay gọi “bố”, “mẹ”, nói tiếng Kinh như thế nào đến làm tính hay hát các bài hát… với cô giáo đều là những kỉ niệm không bao giờ quên. Với 100% người dân là đồng bào dân tộc J’rai nói tiếng dân tộc, việc uốn nắn cho từng em bé cách phát âm và bắt đầu học tiếng phổ thông vô cùng gian nan nhưng cũng nhiều niềm vui. Với trẻ em vùng cao việc nghe cô phát âm tiếng Kinh là một điều mới lạ và thú vị nên các em cũng hứng thú trong mỗi giờ học. Và điều cô vui nhất đó là có những phụ huynh đến trường khoe với cô giáo họ đã ngạc nhiên như thế nào khi con đi học về đã dạy lại cho bố mẹ biết cách phát âm bằng tiếng Kinh của một số đồ vật trong nhà.
Với những thành tích đạt được, cô giáo Siu H Phưl vinh dự trở thành một trong số 128 nhà giáo tiêu biểu đang công tác tại biên giới, hải đảo, vùng cao khó khăn về dự lễ gặp mặt, biểu dương tại Hà Nội đầu tháng 11/2012.
Trong suốt thời gian dạy học, cô giáo Siu H Phưl còn nhớ như in những lần cùng dân lợp lại mái trường vì cứ gió về là mái lại bị tốc và phải cho các em nghỉ học. Do trường nằm trên đồi cao, mái lợp bằng cây rừng không chịu được sức tàn phá ghê gớm của những cơn mưa xối xả nên chuyện phải vào rừng kiếm lá để về lợp trở thành thường xuyên. Mỗi lần phải nghỉ học như thế, các em bé trong bản em nào cũng đứng nem nép ở bậu cửa nhìn ra ngoài ngóng lúc cô giáo làm xong là chạy ùa ra khiến ai nhìn cảnh đấy cũng cảm động. Người dân cho biết: “Ở nhà nhiều lúc con không nghe lời bố mẹ nhưng cô Phưl nói gì cũng răm rắp nghe theo và ngoan lắm”.
Thấm thoắt cũng đã gần 30 năm theo nghề dạy trẻ, giờ cô Siu H Phưl đã ngoài 50 tuổi với những nếp nhăn đầy trên khuôn mặt. Nhưng ở cô vẫn một lòng yêu trẻ và say mê với nghề nên vẫn ngày ngày đến lớp đều đặn với những đứa “con nhỏ” của mình. Trường Mầm non xã TaKa nơi cô công tác với tổng số 17 giáo viên và 2 cán bộ quản lí cũng đã bắt đầu dạy với hình thức bán trú có bữa ăn trưa cho các em. Không còn khó khăn như ngày trước, con em đồng bào dân tộc thiểu số trong địa bàn xã đã được đến trường học cái chữ, đây cũng là điều ao ước của cô giáo bấy lâu nay.
Với những cống hiến trong nghề, năm 2012 cô giáo Siu H Phưl vinh dự trở thành một trong số 128 nhà giáo tiêu biểu đang công tác tại biên giới, hải đảo, vùng cao khó khăn về dự lễ gặp mặt, biểu dương tại Hà Nội đầu tháng 11/2012. Bày tỏ niềm vui, sự xúc động khi được về thủ đô, cô giáo chia sẻ: “Đây là lần đầu tiên tôi được về Hà Nội, được vào lăng viếng Bác Hồ, được gặp mặt nhiều anh chị em trong nghề ở khắp mọi miền Tổ quốc về đây, tôi mừng lắm và càng ngẫm càng thấy yêu công việc mình đang làm hơn. Tôi mong muốn trong tương lai sẽ không còn em bé người dân tộc thiểu số nào phải thất học nữa bởi không được đi học là một thiệt thòi vô cùng lớn cho các em”.
Phạm Oanh
Theo dân trí
Nghị lực vượt khó của cô học trò mồ côi người dân tộc Dao
Bản thân là con nhà nghèo khó, bố lại mất sớm, cô học trò người dân tộc Dao Lý Thị Vui thấy cảnh người dân trong bản nghèo ốm đau mà lại không có tiền đi bệnh viện nên em muốn trở thành bác sĩ để về chữa bệnh cho dân bản.
Sinh ra và lớn lên tại Bắc Kạn, hiện tại Lý Thị Vui đang theo học tại Trường ĐH Y - dược Thái Nguyên. Ước mơ thuở nhỏ thành sự thật khi cô bé người dân tộc Dao này đã thi đỗ vào chuyên ngành Bác sĩ đa khoa và đang theo học năm thứ 5 tại trường. Chúng tôi gặp em trong một ngày nhận học bổng tại Hà Nội, gương mặt Vui rạng ngời cùng nụ cười hiền hậu duyên dáng trong bộ trang phục của dân tộc mình.
Kể về khoảng thời gian đi học trước kia, Vui bùi ngùi nhớ lại: "Từ nhà em đến trường cách 3km nhưng có nhiều dốc đá hiểm trở, có chỗ còn có cả thung lũng sâu hun hút nên cứ mỗi lần đi học là em sợ lắm. Đám bạn bè trong bản lúc nào cũng phải đợi nhau cùng đi cho dù có muộn học đi nữa, thậm chí có nhiều hôm bố mẹ phải bỏ nương rẫy để dẫn chúng em đi học. Buổi sáng đến trường, buổi chiều em lại về nhà chăn trâu và tìm măng chít để bán phụ bố mẹ. Ngày đó ở bản em chưa có điện nên buổi tối bố mẹ mua cho em một chiếc đèn dầu để ngồi học còn bố mẹ thì tranh thủ làm việc gì đó vừa để coi em học, vừa cùng thức để em không thấy sợ".
Đạt thành tích tốt trong học tập, Lý Thị Vui được về Hà Nội nhận học bổng do tổ chức doanh nghiệp trao tặng.
Khi Vui học hết cấp I và cấp II, các bạn trong bản đều bị bố mẹ bắt nghỉ học ở nhà làm việc vì quan niệm "chỉ cần biết chữ đến thế là đủ rồi, học lên cũng không làm được gì cả". Nhưng bố mẹ em lại chiều theo ý của em khi em nói em muốn tiếp tục được học và em cũng là người duy nhất được học hết phổ thông và thi lên đại học. Thích được làm bác sĩ nên Vui đã quyết định dự thi chuyên ngành Bác sĩ đa khoa Trường ĐH Y - dược Thái Nguyên và đã thi đỗ. Ngày ấy bố đã ôm chặt em và nói rất tự hào về con gái khiến em chỉ biết khóc mà không nói được lời nào.
Nhưng rồi tai họa ập đến với gia đình cô bé hiếu học này khi không lâu sau cha của em bị tai nạn giao thông và ra đi mãi mãi bỏ lại 4 mẹ con trong căn nhà rách nát. Không còn bố, một mình mẹ tần tảo làm lụng nuôi cả gia đình nhưng vẫn không quên động viên các con cố gắng học. Hiểu được nỗi vất vả của gia đình và nhớ tới ánh mắt tràn đầy hi vọng của cha lúc còn sống, mấy anh em Vui đều cố gắng học tốt. Hiện anh trai Vui đang học trung học chuyên nghiệp ở Hà Nội, còn em út theo học Cao đẳng Y Hải Dương. Nỗi nhọc nhằn của mẹ càng nhân lên gấp bội nên ngoài giờ học mấy anh em đều đi làm thêm đủ các việc để mẹ không phải gửi tiền lên. Riêng bản thân Vui trong suốt 5 năm học đều là sinh viên giỏi có thành tích tốt và được cử đi học lớp bồi dưỡng kết nạp Đảng.
Đang là sinh viên năm 4 trường Y Dược Thái Nguyên, Lý Thị Vui mơ ước ra trường sẽ chữa bệnh cho bà con dân bản.
Bản thân là người dân tộc thiểu số nên việc học tập và cuộc sống của Vui gặp không ít khó khăn từ việc ăn ở sinh hoạt hàng ngày đến việc tiếp cận những kiến thức xã hội, đặc biệt là những thiết bị điện, máy. Vui bẽn lẽn kể lại lần đầu tiên khi nhìn thấy chiếc máy vi tính: "Lên đại học thấy các bạn chỉ chiếc máy vi tính em ngạc nhiên lắm vì chưa bao giờ nhìn thấy cả. Ngày đó em cũng chưa biết sử dụng như thế nào nên cứ lóng nga lóng ngóng làm các bạn cũng buồn cười làm em ngại đỏ cả mặt. Về sau em nhìn các bạn thao tác để bắt chước theo, còn những điều chưa hiểu thì em nhờ cô giáo chỉ cho em".
Năm năm theo học ở trường ĐH Y - dược Thái Nguyên, giờ đây ước mơ được làm bác sĩ thực thụ sắp thành hiện thực, cô bé nghèo hạnh phúc lắm. Kể lại những lần đi thực tế khám bệnh tại bệnh viện em không khỏi nghẹn ngào khi nhắc đến những bệnh nhân nghèo có khi còn không có nổi tiền ăn. Xuất thân từ gia đình nghèo khó, Vui càng hiểu được sâu sắc vấn đề vướng mắc của họ nên ngoài việc chuyên môn em gần gũi nói chuyện, động viên để họ ở lại tiếp tục chữa bệnh. Càng gần người bệnh, em hiểu hơn về "giá trị của cuộc sống" và càng thấy phải trân trọng hơn những điều hiện tại mình đang có. Hàng ngày cùng các thầy cô giáo, cô học trò nhỏ tới bệnh viện khám lâm sàng rồi đến buổi tối lại đi trực. Công việc bận rộn cứ đều đều nhưng lại khiến em say mê và yêu thích đặc biệt. "Lương y như từ mẫu" - Vui luôn tâm niệm câu nói ấy đối với ngành của mình để cố gắng phấn đấu không chỉ ở trình độ, kiến thức chuyên môn mà cả ở việc trau dồi đạo đức, tư cách của một người bác sĩ.
Phạm Oanh
Theo dân trí
Niềm vui sau bục giảng của giáo viên cắm bản "Niềm vui lớn nhất của giáo viên bản lẻ là được thấy các em biết đọc, biết viết, biết nói tiếng phổ thông...", thầy Bùi Văn Hảo - hiệu phó Trường tiểu học Hữu Khuông, xã biên giới Hữu Khuông (huyện Tương Dương, Nghệ An) chia sẻ. Nếu niềm vui của giáo viên (GV) sau bục giảng là được quây quần bên gia...