Người lính Mỹ một mình bắt sống cả đội quân Đức
Sinh ra trong hoàn cảnh nghèo khó, thất học và từng là 1 kẻ nghiện rượu, thế nhưng Thế chiến 1 đã biến trung sĩ Mỹ Alvin York trở thành 1 người hùng với chiến công bắt sống cả đội quân Đức.
Alvin York, sinh năm 1887, là đứa con lớn thứ 3 trong tổng số 11 người con của gia đình. Trong suốt t.uổi thơ, do điều kiện khó khăn, ông chỉ tới trường được 9 tháng rồi buộc phải nghỉ học để giúp đỡ gia đình với việc săn b.ắn và trồng trọt. Sau khi cha ông mất, York trở thành 1 kẻ nghiện rượu và thường xuyên dính líu tới các cuộc ẩu đả. Chỉ khi người bạn thân Everett Delk c.hết sau 1 cuộc đ.ánh lộn, ông mới từ bỏ rượu và bắt đầu trở thành 1 người ủng hộ hòa bình, phản đối bạo lực.
Người hùng bắt sống cả đội quân Đức Alvin York
Tuy nhiên, khi Thế chiến 1 bùng nổ và York bị gọi nhập ngũ, tư tưởng phi bạo lực đã trở thành rắc rối cho chính bản thân ông. Tháng 12.1917, sau khi đơn xin miễn nhập ngũ bị bác bỏ, ông gia nhập quân đội và được phân công vào Đại đội G thuộc Trung đoàn Bộ binh số 328 của Sư đoàn Bộ binh số 82. Sau đó, sư đoàn của ông được gửi tới Pháp để tham gia Chiến dịch tấn công Saint-Mihiel.
Khi chiến dịch kết thúc, ông tiếp tục tham gia Chiến dịch tấn công Meuse-Argonne. Đây cũng chính là sự kiện giúp ông ghi tên mình vào lịch sử quân đội Mỹ với thành tích có 1 không 2.
Vào ngày 8.10.1918, York cùng đơn vị mình nhận được chỉ thị chiếm giữ cứ điểm của quân Đức xung quanh Đồi 223, nằm dọc đường ray tàu hỏa Decauville, phía bắc xã Chatel Chery (tỉnh Ardennes, Pháp). Tuy nhiên, người Đức với s.úng máy trên đỉnh đồi trở thành 1 đối thủ đáng gớm, sẵn sàng “làm cỏ” bất cứ toán lính Mỹ nào dám tiến công.
Để tránh thiệt hại gia tăng, York cùng với 1 số sĩ quan và 13 binh sĩ khác vòng ra đằng sau để hạ các ổ s.úng máy. Chiến thuật này tỏ ra hiệu quả khi nhóm của ông đã bất ngờ chiếm được sở chỉ huy quân Đức, bắt sống nhiều binh sĩ kẻ thù. Thế nhưng, các ổ s.úng máy trên đồi bất ngờ nhắm thẳng vào nhóm của York khiến 6 người t.hiệt m.ạng và 3 người khác bị thương. Trong tình thế nước sôi lửa bỏng, York – lúc này đã trở thành chỉ huy – ra lệnh cho các đồng đội canh chừng tù nhân, còn bản thân thì tìm cách vô hiệu hóa s.úng máy.
Video đang HOT
Trung sĩ Alvin York tại quả đồi ông lập chiến công 3 tháng sau khi Thế chiến 1 kết thúc
Lúc này, 1 mình ông phải đối mặt với 30 lính Đức. Tuy nhiên, bằng những kĩ năng săn b.ắn thời còn trẻ, ông trở thành cơn ác mộng với kẻ thù bằng thủ thuật “bắn-nấp” cực kì chính xác của mình. Đã có lúc, 9 người lính Đức xông lên để hạ gục York nhưng ông vẫn bình tĩnh rút s.úng lục b.ắn hạ tất cả trước khi họ có cơ hội tiếp cận mình.
Sau khi nghe được lời kêu gọi đầu hàng của York, trung úy Paul Vollmer – sĩ quan chỉ huy quân Đức đã chấp nhận buông s.úng để không phải hi sinh vô ích. Sau trận chiến tưởng chừng không cân sức, York và 7 người lính Mỹ nữa áp giải tổng cộng 132 tù binh Đức về căn cứ.
Nhờ chiến công này, York được thăng quân hàm trung sĩ và nhận Huân chương Phục vụ Xuất chúng (sau này được nâng cấp thành Huân chương Danh Dự). Không chỉ có vậy, dù là 1 người lính Mỹ, ông vẫn được nước Pháp trao cho Huân chương Croix de Guerre và Huân chương Bắc Đẩu Bội tinh.
Theo Danviet
Trận tử thủ của 800 lính Ba Lan trước 42.000 quân Đức năm 1939
Một đơn vị 800 lính Ba Lan đã cầm chân quân đoàn thiện chiến đông gấp 52 lần của phát xít Đức suốt ba ngày.
Đại úy Wadysaw Raginis. Ảnh: Wikipedia.
Khi phát xít Đức tràn qua biên giới Ba Lan ngày 1.9.1939, đại úy Wadysaw Raginis được giao nhiệm vụ chỉ huy lực lượng phòng thủ tại khu vực Wizna, cách t.iền tuyến 65 km. Trong trận đ.ánh này, 800 lính dưới quyền Raginis đã cầm chân 42.000 lính Đức suốt 72 giờ, biến Wizna trở thành một trong những biểu tượng nổi bật nhất của lòng dũng cảm trong Thế chiến II, theo War History.
Đại úy Raginis phục vụ trong Quân đoàn Biên phòng Ba Lan, đơn vị tinh nhuệ có nhiệm vụ bảo vệ đường biên giới Ba Lan trước mọi cuộc xâm lược. Mùa hè năm 1939, trước nguy cơ xâm lăng từ phát xít Đức, Raginis chỉ huy lực lượng phòng thủ ở Wizna xây dựng hệ thống hầm hào, công sự, sẵn sàng chiến đấu.
Khi Thế chiến II nổ ra, lực lượng dưới quyền Raginis gồm khoảng 800 quân, được trang bị hai s.úng trường chống tăng, 6 pháo diệt tăng cỡ nòng 76 mm và 42 khẩu s.úng máy. Thị trấn Wizna được xây dựng như một pháo đài nhỏ, nhưng hệ thống lô cốt và hầm hào chưa được hoàn thiện khi chiến sự nổ ra. Raginis hy vọng các điểm phòng thủ có thể cầm chân đối phương trong vài ngày, nhưng không biết lực lượng khổng lồ của phát xít Đức đang tiến tới khu vực này.
Ở bên kia chiến tuyến, Quân đoàn 19 Đức của tướng Heinz Guderian gồm 42.000 quân được trang bị 350 xe tăng, 657 khẩu pháo và cối các loại bắt đầu tiến công Ba Lan. Lực lượng Đức bao vây các điểm phòng thủ biên giới của Ba Lan, chia cắt chúng với nửa phía đông nước này. Sau 6 ngày giao tranh, quân Đức tiến đến sông Narew và thị trấn Wizna.
Sáng 7.9.1939, kỵ binh trinh sát Ba Lan phát hiện thiết giáp Đức đang tiến về phía thị trấn Wizna nên báo động cho quân chủ lực phía sau. Công binh Ba Lan cho nổ tung cây cầu duy nhất qua sông Narew, giúp quân của Raginis có thêm thời gian chuẩn bị.
Các mũi tấn công của Đức (màu đỏ) nhằm vào Wizna. Đồ họa: Wikipedia.
Khi đêm xuống, lực lượng hai bên bắt đầu giáp mặt. Trinh sát đường không Đức phát hiện mạng lưới chiến hào và lô cốt dài 6,5 km chạy từ Wizna đến Krupiki. Quân Đức không biết chính xác quân số Ba Lan, trong khi lực lượng phòng thủ biết rõ mình bị áp đảo về số lượng.
Lợi dụng đêm tối, bộ binh Đức tìm cách vượt sông, nhắm vào điểm yếu trong tuyến phòng thủ Ba Lan. Tuy nhiên, khi quân Đức đến gần lô cốt đầu tiên, s.úng máy bên trong khai hỏa quét qua đội hình, gây thương vong lớn và buộc lính Đức phải rút lui.
Ngày hôm sau, oanh tạc cơ Đức thả tờ rơi kêu gọi đầu hàng. Đại úy Raginis và trung úy Brykalksi, phó chỉ huy lực lượng phòng thủ, tuyên bố sẽ tử thủ đến cùng và buộc quân Đức phải trả giá đắt.
Chiều 8.9, không quân và pháo binh Đức bắt đầu oanh tạc các vị trí t.iền phương, buộc quân Ba Lan rút vào trú ẩn trong lô cốt. Quân Đức tấn công hai lô cốt nằm tách biệt ở phía bắc sông Narew, bao vây họ từ ba phía. S.úng trường và s.úng máy Ba Lan cầm chân được bộ binh Đức cho đến khi đối phương nã pháo dồn dập, khiến hai trung đội phòng thủ phải rút lui.
Tuyến phòng thủ duy nhất của quân Ba Lan ở phía bắc là sông Narew, trong khi ở phía nam, quân Đức đã tràn qua cánh đồng hướng về các chốt của quân Ba Lan. Tuy nhiên, quân Đức chỉ có thể tiến chậm ở địa hình trống trải và bùn lầy. Quân của Raginis tập trung hỏa lực s.úng trường và s.úng máy vào bộ binh Đức, nhưng lực lượng này tiếp tục tiến công dưới sự yểm trợ của thiết giáp. B.ị b.ắn phá dữ dội, quân Ba Lan phải rút từ chiến hào vào trong lô cốt kiên cố và chịu nhiều thương vong.
Đến cuối ngày, xe tăng Đức vượt qua phòng tuyến của Ba Lan, nhưng bộ binh vẫn không thể áp sát lô cốt. Raginis và đồng đội hiểu rằng họ sẽ không có tiếp viện để chống lại cuộc tiến công.
Giao tranh diễn ra xuyên đêm, quân Đức cố gắng chiếm các lô cốt vòng ngoài, trong khi lính Ba Lan tiếp tục cầm chân đối phương, khiến hai bên chịu thương vong lớn. Dưới sự yểm trợ của xe tăng, công binh Đức dùng thuốc nổ phá hủy từng lô cốt một, dần đẩy lùi lực lượng phòng thủ Ba Lan.
Phần còn lại của một lô cốt tại Wizna. Ảnh: Wikipedia.
Đến sáng 10.9, quân Ba Lan chỉ còn co cụm cố thủ trong hai lô cốt. Một lính Đức mang theo cờ trắng tiếp cận phòng tuyến, yêu cầu ngừng b.ắn để chôn cất người c.hết và thương thuyết điều khoản đầu hàng cho phía Ba Lan.
Raginis phải đưa ra lựa chọn khó khăn, tiếp tục chiến đấu để cầm chân đối phương lâu hơn hoặc đầu hàng để cứu binh sĩ dưới quyền. Nhận thấy phần lớn các đồng đội đều bị thương và gần hết đạn, Raginis quyết định đầu hàng để không lãng phí mạng sống của họ. Bản thân đại úy Raginis cũng bị thương nặng, nhưng quyết không để bị bắt làm tù binh nên đã rút lựu đạn t.ự s.át sau khi bảo đảm binh lính Ba Lan được an toàn.
Trận đ.ánh Wizna đã trở thành biểu tượng dũng cảm của Ba Lan. Dù đối mặt với đối phương đông gấp 52 lần, đội quân dưới quyền đại úy Raginis đã dũng cảm cầm chân một trong những lực lượng thiện chiến nhất của Đức trong suốt 72 giờ.
Theo Duy Sơn (VnExpress)
5 loại vũ khí g.iết hàng triệu người trong Thế chiến I Trong Thế chiến I, nhiều loại vũ khí hiện đại, có tính sát thương cao đã được sáng chế nhằm mục đích cuối cùng: khuất phục đối thủ. Sau đây là 5 thứ vũ khí "thần chết" đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người trong cuộc chiến. S.úng máy Maxim MG 08 Trong Thế chiến I, lính Đức với s.úng máy...