Người La Mã cổ đại đã đến Việt Nam?
Đương thời, Ptolemy là học giả được kính trọng nhất và tác phẩm ‘Địa lý’ của ông liệt kê, miêu tả hơn 3 nghìn địa danh.
Học giả Claudius Ptolemy (100 – 178 SCN). Ảnh: Phnompenhpost.com
Học giả Hy Lạp – La Mã huyền thoại Claudius Ptolemy (100 – 178 sau Công nguyên) viết trong cuốn sách giá trị nhất của ông, Địa lý (Geography) rằng các thương nhân La Mã đã giao dịch đến tận phố cảng Cattigara nằm ở cửa sông Cottaris. Tên Tiếng Việt của 2 địa danh này nhiều khả năng là Óc Eo và Cửu Long.
Bằng chứng khảo cổ
Ptolemy để lại rất nhiều tri thức về toán học, thiên văn, địa lý và âm nhạc. Đương thời, ông là học giả được kính trọng nhất và tác phẩm “Địa lý” của ông liệt kê, miêu tả hơn 3 nghìn địa danh. Theo ghi chép của ông, các thương nhân kiêm thủy thủ của La Mã không ngại thực hiện những chuyến đi buôn đầy nguy hiểm, xa xôi. Họ đã tới được tận Ấn Độ và xa hơn nữa.
Địa điểm xa nhất trên hành trình đi về phía Đông của các thương nhân La Mã mà học giả Ptolemy viết là Bán đảo Vàng (Chryse Chersonesos) và tại đây, họ giao dịch tại thành phố cảng Cattigara gần cửa sông Cottaris.
Năm 1942, nhà khảo cổ người Pháp là Louis Malleret (1901 – 1970) đã phát hiện và khai quật tàn tích đô thị cổ tại cánh đồng phía Đông Nam núi Ba Thê, An Giang.
Ông lấy luôn tên của một gò đất trên cánh đồng này là Óc Eo đặt cho khu tàn tích. Mặc dù hoạt động khai quật bị gián đoạn bởi Thế chiến II (1939 – 1945), nhưng nhà khảo cổ Malleret vẫn có được một số thành tựu, trong đó nổi bật nhất là những đồng xu La Mã thuộc thế kỷ II SCN.
Năm 2012, tàn tích Óc Eo được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt. Ở thời gian mà học giả Ptolemy sinh sống, Óc Eo có lẽ là kinh đô của Vương quốc Phù Nam (thế kỷ I – III SCN).
Kết quả khai quật di tích Óc Eo cho thấy có một số tượng gốm, tiền xu, vàng miếng khắc hình các vị thần Hindu và chữ tiếng Phạn, chứng tỏ Phù Nam có giao lưu với Ấn Độ. Ngoài ra, còn một số món trang sức hao hao với các món có ở khu vực Địa Trung Hải cùng thời.
Trong khu vực Đông Nam Á nhưng ngoài địa điểm Óc Eo – Ba Thê, các nhà khảo cổ tìm thấy một số đồ gốm, chuỗi hạt bằng thủy tinh vàng La Mã. Hầu hết các địa điểm này đều nằm lân cận Đồng bằng sông Cửu Long. Xâu chuỗi các địa điểm và hiện vật chỉ ra, sông Cửu Long nói riêng và sông Mê Kông nói chung nhiều khả năng chính là Cottaris.
Thách thức kết luận
Video đang HOT
Một góc khu di tích đặc biệt Óc Eo – Ba Thê. Ảnh: Badancient.com
Bên cạnh bài viết của học giả Ptolemy, còn một số tư liệu cổ khác khẳng định người từ Đế chế La Mã đã đến châu Á. Theo Hậu Hán Thư ( ô60;漢書) của sử gia Phạm Diệp (398 – 445 SCN, Trung Quốc), những cá nhân này được Andun (hoàng đế La Mã) phái đi và nhiệm vụ của họ là làm thân với Trung Quốc, giúp hoàng đế kết bang giao, nói chung là giống như sứ giả.
Trước khi đến Trung Quốc, các sứ giả này đã lòng vòng khắp Đông Nam Á, thu thập những món đồ quý như ngà voi, sừng tê giác, mai rùa… làm cống phẩm, cuối cùng đi qua Nhật Nam (miền Trung Việt Nam), tiến vào Giao Chỉ (miền Bắc Việt Nam).
Trên hành trình tìm đến Trung Quốc của các sứ giả La Mã, Óc Eo trong tư cách kinh đô kiêm cảng biển thương mại quốc tế của Vương quốc Phù Nam đóng vai trò như điểm tạm dừng chân.
“Nơi đây nhiều khả năng là bến cảng cuối cùng của hải trình từ Đông Địa Trung Hải”, nhà sử học nổi tiếng George Coedes (1886 – 1969) viết trên Tạp chí Journal năm 1964.
Có một điểm giống nhau giữa Ptolemy và Phạm Diệp là cả 2 đều “nghe kể rồi viết lại”. Ptolemy thì nghe từ những thủy thủ kiêm thương nhân (họ truyền tai nhau các câu chuyện về buôn bán ở phương xa), còn Phạm Diệp thì nghe kể từ những người xung quanh. Nói cách khác, ghi chép của họ đều chưa đủ tính xác thực để làm bằng chứng.
Thêm vào đó, ghi chép của Phạm Diệp còn khá “chính trị hóa”. Nhiều người nghi ngờ, các sứ giả La Mã thực ra chỉ là các thương nhân liều lĩnh. Vì kiếm lợi, họ bất chấp vượt qua lãnh thổ Việt Nam đang trong thời kỳ Bắc thuộc đầy nguy hiểm, cố gắng đi xa nhất và đã đến được Lạc Dương, Trung Quốc, chứ không hề quan tâm đến chuyện bang giao.
Ngay cả đồng xu La Mã mà nhà khảo cổ Malleret tuyên bố tìm thấy tại Óc Eo cũng không hẳn đáng tin, vì ông không tự khai quật thấy ở nơi này mà chỉ mua lại từ người khác.
So với hải trình mà điểm cuối là hải cảng Óc Eo vẫn chưa được xác nhận thì hải trình khác nối liền La Mã với miền Tây Ấn Độ đã rõ ràng. Theo Vòng quanh biển Erythraean (Periplus of the Erythraean Sea), văn bản giống như “nhật ký đường biển” được viết trong thế kỷ I SCN thì thương gia kiêm nhà hàng hải Hippalus (thế kỷ I TCN, Hy Lạp) đã phát hiện có thể lợi dụng gió mùa để đi thuyền từ La Mã đến Ấn Độ bằng cách men theo bờ biển Erythraean (Biển Đỏ).
Hải trình này cho phép các thương nhân La Mã từ các cảng ở Ai Cập thuộc La Mã và các cảng khác dọc theo Sừng châu Phi, vịnh Ba Tư, biển Ả Rập, Ấn Độ Dương… kết nối với nhau. Sau khi dừng thuyền ở bờ biển phía Tây của Ấn Độ, họ băng qua đất liền và tiến vào Trung Quốc, mua gia vị, tơ lụa, trái cây, động vật hoang dã… bằng tiền La Mã và đem về nước.
Rất nhiều bằng chứng khảo cổ được tìm thấy dọc bờ biển Ấn Độ đã xác minh điều này. Theo ghi chép của học giả Gaius Plinius Secundus (23 – 79 SCN, Hy Lạp), tơ lụa từ Trung Quốc cực đắt, ít nhất cũng khiến La Mã phải mất 100 triệu sester (đồng vàng) mỗi năm để mua về.
Cho đến nay, vẫn chưa có bằng chứng nào đủ chắc chắn để khẳng định người La Mã cổ đại đã tiếp xúc với người Phù Nam nói riêng và người Đông Nam Á nói chung. Các mẩu hiện vật và đồ tạo tác ít ỏi cho thấy có sự liên quan đến nhau giữa La Mã và Đông Nam Á nhiều khả năng chỉ là được mua bán, trao đổi qua một hoặc nhiều trung gian khác. Tuy nhiên, cũng không loại trừ khả năng họ đã từng đến tận Óc Eo thật.
“Dù không dám khẳng định Óc Eo chính là Kattigara hay Cửu Long chính là Cottaris, nhưng tôi cũng không dám phủ định”, Giáo sư khảo cổ kiêm chuyên gia về Vương quốc Phù Nam – Miriam Stark, Đại học Hawaii (Mỹ) nói.
So với bất cứ địa điểm nào đã được phát hiện, Óc Eo vẫn là ứng cử viên tiềm năng nhất. Các nhà nghiên cứu, khảo cổ đang chờ đợi và hy vọng ngày càng tìm thấy được nhiều bằng chứng mới hơn, để có thể đưa ra kết luận sau cùng.
Đào đất tìm đồ cho bạn vô tình phát hiện kho báu trị giá cả chục tỷ đồng
Theo thống kê, kho báu gồm nhiều đồng xu cổ và những đồ trang sức giá trị, được bảo tàng Anh mua lại với giá 1,25 triệu bảng Anh (khoảng 38 tỷ đồng).
Vào những năm 1990, kho báu lớn nổi tiếng được phát hiện ở Anh - kho báu Hawkson, được đặt tên theo một ngôi làng cổ ở Suffolk, miền đông nước Anh.
Tháng 11/1992, Eric Rouse quyết định cải tạo ngôi nhà. Anh nhờ sự giúp đỡ từ bạn bè và hàng xóm để nhanh chóng hoàn thành công việc.
Peter Watling, một trong những người hàng xóm đến giúp nói có thể cây búa đinh của mình bị bỏ quên ở sân nhà Rouse. Rouse tìm trong sân rất lâu nhưng vẫn không thấy, cuối cùng phải dùng đến chiếc máy dò kim loại để tìm kiếm.
Cũng vì thế, máy dò nhanh chóng phát ra tiếng kêu ở đâu đó trong sân, Rouse nghĩ rằng đây là nơi chiếc búa bị vùi lấp nên nhanh chóng lấy dụng cụ ra và bắt đầu đào bới. Được khoảng nửa mét, không thấy dấu vết của chiếc búa nhưng âm thanh cảnh báo của máy vẫn vang lên. Âm thanh kích thích sự tò mò của Rouse nên anh tiếp tục đào xuống.
Kho báu gồm nhiều đồng xu cổ bằng bạc, vàng và đồ trang sức có giá trị.
Càng đào sâu, âm thanh của máy càng lớn. Khi đạt đến chiều sâu khoảng 1,5m, Rouse phát hiện đó là đồng bạc cổ. Anh nhặt lên và quan sát kỹ thì nhận ra đây là đồng bạc từ thời La Mã cổ đại.
Mặc dù đã nhuốm màu thời gian do bị chôn vùi nhiều năm trong đất, nhưng hoa văn và hình tượng đầu người bên trên "cổ vật" này không khó để nhận ra. Rouse tiếp tục đào bới xung quanh thì thấy rất nhiều đồng xu cổ, thìa bạc và các đồ trang sức.
Nhận thấy đây có vẻ là "kho báu" được chôn cất từ lâu, Rouse ngưng công việc lại và báo cáo tới các cơ quan có thẩm quyền. Các chuyên gia lập tức có mặt và bắt đầu khai quật. Nhờ sử dụng các thiết bị chuyên nghiệp và đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm, cuộc khai quật diễn ra trong vòng chưa đầy một ngày.
Dự đoán của Rouse đã đúng, thực sự có kho báu được chôn trong sân. Chúng gồm 14.191 đồng xu bạc, 565 đồng xu vàng, hơn 20 đồng xu đồng, cùng nhiều trang sức và đồ thủ công mỹ nghệ bằng vàng, bạc khác.
Những đồng tiền vàng La Mã cổ đại được đúc từ năm 394 - 405 sau công nguyên. Trên những đồ trang sức làm bằng vàng ròng đó lẽ ra phải được đính đá quý, nhưng đá quý dễ mang đi và có giá trị hơn, nên có thể đã bị chủ nhân lấy ra.
Ngoài ra, kho báu còn chứa vàng cốm nguyên chất nặng tới 250kg. Các chuyên gia khảo cổ suy đoán, kho báu này được chôn cất vào khoảng đầu thế kỷ V sau công nguyên.
Để không bỏ sót, các chuyên gia dùng máy dò kim loại thực hiện tỉ mỉ xung quanh khu vực và tìm thấy một số đồng tiền vàng, bạc lẻ tẻ. Tất nhiên, trong cuộc điều tra này, chiếc búa của Watling cũng được tìm thấy.
Lúc vừa phát hiện, người ta định giá cho kho báu này khoảng 1,75 triệu bảng Anh (tương đương 52 tỷ đồng).
Theo luật của Anh, nếu kho báu không có người nhận, chúng sẽ thuộc về nhà nước. Kho báu này bị chôn vùi khoảng hơn 1.000 năm cho đến khi bị Rouse tìm ra, hiển nhiên rất khó để xác nhận chủ nhân thực sự của chúng. Vì vậy chúng thuộc về tài sản quốc gia. Dù vậy, người tìm thấy có thể nhận được phần thưởng hậu hĩnh bởi các tổ chức liên quan.
Trước đó, một kho báu với niên đại 1.400 năm cũng đã được tìm thấy ở Norfolk (Anh) thông qua quá trình dò kim loại của một người đàn ông giấu tên.
Theo tờ Evening Standard, kho báu bao gồm 131 đồng tiền vàng và 4 đồ vật khác, cũng bằng vàng, được khai quật trên một khu vực rộng lớn trong suốt những năm 2014 đến 2020. Những đồng tiền đã lộ ra khi mảnh ruộng bên trên nó được cày xới.
Hầu hết các đồng xu đều cùng một khuôn và các đồ vật bằng vàng khác đều có những dấu hiệu cho thấy chúng cùng thuộc về một kho tàng. Nơi chôn giấu chính thức được cho là gần mộ phần của một nhà cai trị cổ đại ở khu vực gọi là "Sutton Hoo", nơi vị lãnh chúa - hoặc vị vua - được tìm thấy trong một con tàu lớn với số đồ tùy táng đáng giá cả một kho tàng.
Tờ Acient Origins cho biết thật ra đồng xu đầu tiên đã lộ diện từ năm 1991 nhưng đến năm 2014, khi có thêm vài đồng xu nữa xuất hiện, người ta mới thực sự chú ý.
Theo tiến sĩ Adrian Marsden từ Cơ quan Môi trường và lịch sử Norfolk, có một vài đồng xu trong kho báu được đúc bởi Đế chế Byzantine, nhưng hầu hết được tạo ra bởi triều đại Merovingian, tương ứng với nước Pháp ngày nay. Vào thời kỳ này trong lịch sử, nước Anh không đúc tiền vàng của riêng mình, vì vậy số tiền phải được đem về từ nơi nào khác của châu Âu.
Có một điều đặc biệt là các đồng xu này lại cùng khuôn với các đồng tiền khác trong một chiếc ví cũng khai quật ở Sutton Hoo, do đó toàn bộ kho tàng có thể cùng thuộc về một người Anh thường lui tới Merovingian cổ đại.
Xác tàu buôn La Mã cổ đại 2.000 năm trước được tìm thấy với vô số cổ vật Xác con tàu buôn đã được định vị và thám hiểm bởi một tàu lặn điều khiển từ xa, cho thấy hàng trăm cổ vật, hầu hết trong tình trạng nguyên vẹn. Xác một tàu buôn thời La Mã cổ đại từ ít nhất 2.000 năm trước đã được tìm thấy trển Biển Địa Trung Hải, ngoài khơi bờ biển cảng Civilitavecchia, tây...