Người hiến kế cho Ngô Quyền cắm cọc xuống sông Bạch Đằng
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 là một trong những trận thủy chiến lớn mà quân và dân ta giành thắng lợi trước quân xâm lược.
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, nhân dân ta từng làm nên những chiến công lừng lẫy cả trên đất liền và biển đảo. Một trong số đó là chiến thắng Bạch Đằng.
Năm 938, theo sự cầu cứu của Kiều Công Tiễn, Lưu Nghiễm (vua Nam Hán) phong con trai Lưu Hoằng Tháo làm Tĩnh hải tiết độ sứ chỉ huy thủy quân, còn bản thân tự mình làm tướng, kéo quân sang xâm lược nước ta.
Tuy nhiên, khi đại quân của chúng còn chưa tới nơi thì Kiều Công Tiến đã bị chết. Mất đi nội ứng từ bên trong, quân Nam Hán chẳng khác gì rắn mất đầu.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, sau khi biết tin Nam Hán kéo quân sang, Ngô Quyền đã nói với tướng sĩ rằng: “Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe tin Kiều Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được”.
Điểm mạnh lớn nhất của quân Nam Hán lúc bấy giờ chính là chiến thuyền. Tương truyền, người được cho là nghĩ ra kế cắm cọc xuống đáy sông giúp Ngô Vương là Kiều Công Hãn. Đó là vị tướng tài, xuất thân từ gia đình có thế lực nhiều đời làm hào trưởng tại vùng Phong Châu (Phú Thọ).
Ông là con của Kiều Công Chuẩn, anh trai sứ quân Kiều Thuận và là cháu nội của Kiều Công Tiễn. Năm 937, Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ để chiếm quyền, Kiều Công Hãn không theo ông nội mà mang quân vào châu Ái theo Ngô Quyền.
Sau này, năm 1637, sứ thần Giang Văn Minh sang nhà Minh. Vua Minh ngạo mạn ra cho sứ bộ một vế đối: “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục”, nghĩa là “Đồng trụ đến giờ rêu vẫn mọc”, hàm ý nhắc việc Mã Viện từng đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn chiếc cột đồng với lời nguyền: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” – Cột đồng gãy thì Giao Chỉ bị diệt vong.
Giang Văn Minh đã hiên ngang đối lại bằng câu: “Đằng Giang tự cổ huyết do hồng”, nghĩa là “Bạch Đằng thuở trước máu còn loang”. Vế đối này vừa chuẩn, vừa có ý nhắc lại việc người Việt đã ba lần đánh tan quân xâm lược phương Bắc trên sông Bạch Đằng.
Vốn là tướng tài, Kiều Công Hãn đã có cái nhìn và nhận định chuẩn xác khi khuyên Ngô Quyền rằng: “Nam Hán là nước nhỏ ở vùng duyên hải, nhân nhà Đường tan rã mà nổi lên chiếm một vùng đất ở phía Đông Nam, dựng thành nước, quân đội mạnh về thủy chiến. Nếu sang nước ta, tất chúng sẽ lấy đường biển mà tiến, qua sông Bạch Đằng để vào Đại La. Ta nên bày trận đánh chúng ngay khi mới vào cửa sông Bạch Đằng”.
Ngô Quyền khen kế đó hay, liền sai Dương Tam Kha chỉ huy quân lính chặt ba nghìn cây gỗ, vót nhọn, bịt sắt rồi đóng xuống lòng sông trên một quãng dài 3 dặm.
Sau khi chiến địa được dựng xong, nhiệm vụ đặt ra là dụ địch vào bãi cọc theo ý đồ đã định sẵn. Đây là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng để có thể giành chiến thắng. Danh tướng Nguyễn Tất Tố được giao nhiệm vụ khó khăn này.
Nguyễn Tất Tố sinh ra ở vùng sông nước ở làng Gia Viên (Hải Phòng), rất giỏi bơi lội. Ngoài ra, ông cũng là người am hiểu tường tận sông nước Bạch Đằng.
Video đang HOT
Sử sách ghi chép lời ông rằng: “Vùng sông nước này tôi rất quen thuộc, biết được lúc nước lên xuống. Nay muốn giặc mắc bẫy, chỉ có cách dùng thuyền nhỏ ra khiêu chiến, chọn đúng giờ khắc thích hợp thì giả thua bỏ chạy”.
Ông được Ngô Quyền giao cho một đội quân nhỏ, có nhiệm vụ ra khiêu chiến. Đúng như dự đoán, khi binh thuyền Nguyễn Tất Tố bỏ chạy, Hoằng Tháo lập tức thúc quân đuổi theo.
Khi quân địch đi qua bãi cọc Bạch Đằng, chúng bất ngờ bị quân ta từ các hướng xông ra tấn công dồn dập, thua chạy ra biển. Nhưng khi chúng rút ra tới cửa sông, lúc này, thủy triều đã rút mạnh, bãi cọc Bạch Đằng nhô lên, khiến thuyền địch mắc lại và vỡ tan tành. Quân Nam Hán phần bị giết, phần chết đuối, phần phải đầu hàng hoặc bị bắt sống. Lưu Hoàng Tháo bỏ mạng tại trận.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Vua Nam Hán đang cầm quân tiếp ứng đóng ở biên giới mà không kịp trở tay đối phó. Nghe tin Hoằng Tháo tử trận, Nghiễm kinh hoàng, đành thương khóc thu nhặt quân còn lại mà rút lui, từ đó bỏ hẳn mộng xâm lược nước ta”.
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, có thể coi đây là trận toàn thắng của dân tộc ta trên con đường đấu tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hóa, giành lại độc lập dân tộc.
Đánh giá về sự kiện này, sử thần Ngô Sĩ Liên viết: “Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới họp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa.
Có thể nói là một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đế, đổi niên hiệu, chính thống của nước Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được”.
Theo Zing
Ngô Quyền và trận địa cọc lừng lẫy trên sông Bạch Đằng
Chiến thắng Bạch Đằng đập tan quân Nam Hán đánh dấu đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Bởi vậy, Ngô Quyền được giới sử gia xếp là "vua đứng đầu các vua" của nước Việt.
Theo Phả họ Ngô, Ngô Quyền sinh ngày 12/3 năm Đinh Tỵ (897), mất năm 944, một số tài liệu khác ghi ông sinh năm Mậu Ngọ 898. Ông còn được biết đến với tên gọi Tiền Ngô Vương, người ấp Đường Lâm (nay là xã Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội).
Ngô Quyền sinh ra trong dòng họ hào trưởng có thế lực. Cha ông là Ngô Mân, từng làm chức Châu mục Đường Lâm, rất được người dân mến phục.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư (ngoại kỷ, quyển 5) mô tả: "Ngô Quyền có dung mạo khác thường, lưng có ba nốt ruồi. Các thầy tướng cho là lạ, rằng có thể làm chủ được một phương. Bởi thế, Ngô Mân mới đặt tên con là Quyền. Khi lớn lên, Ngô Quyền có tướng mạo khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, trí dũng hơn người, sức có thể nâng được vạc".
Lúc trưởng thành, Ngô Quyền tinh thông võ nghệ, có chí lớn. Ông tham gia xây dựng chính quyền họ Khúc ở Đại La rồi theo Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán xâm lược lần thứ nhất, giải phóng thành Đại La năm 931.
Trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng năm 938. Tranh minh họa trưng bày tại Bảo tàng lịch sử quốc gia.
Dương Đình Nghệ lên cầm quyền, tự xưng là Tiết độ sứ, đóng tại thành Đại La. Ông phong cho Đinh Công Trứ (cha Đinh Bộ Lĩnh) chức thứ sử Hoan Châu, gả con gái là Dương Thị Như Ngọc cho Ngô Quyền và giao coi giữ Ái châu.
Năm 937, một nha tướng là Kiều Công Tiễn phản chủ, giết Dương Đình Nghệ để cướp quyền. Do soán ngôi bất minh, Kiều Công Tiễn bị dân chúng và các thế lực phản đối kịch liệt.
Dù căm thù kẻ phản chủ giết hại cha vợ mình, Ngô Quyền vẫn kìm nén lòng, tiếp tục củng cố lực lượng và tạo dựng thời cơ trả thù. Lo sợ trước viễn cảnh đen tối, Kiều Công Tiễn dấn thêm một bước sai lầm tệ hại là cầu cứu nhà Nam Hán. Chỉ chờ có vậy, nhà Nam Hán bèn lấy cớ xua quân xuống xâm lược nước ta.
Sau đó, Kiều Công Tiễn bị Ngô Quyền đem quân từ Ái Châu ra Đại La tiêu diệt.
Kế hoạch tạo địa cọc ở cửa sông Bạch Đằng
Sau khi nhận lời cầu cứu từ Kiều Công Tiễn, vua Nam Hán là Lưu Cung nhận thấy đây là cơ hội tốt để xâm chiếm nước ta lần nữa và cũng để trả thù cho lần thất bại mấy năm trước. Y bèn sai con trai là Hoằng Tháo (trao tước là Giao Vương) đem quân sang hòng cướp nước ta. Vua Hán đóng quân ở Hải Môn sẵn sàng tiếp ứng cho con trai khi cần.
Về phía Ngô Quyền, sau khi trừ khử Kiều Công Tiễn, nghe tin đại quân của Hoằng Tháo sắp tấn công bằng đường thủy, ông bèn họp bàn các tướng lĩnh để bày mưu phá giặc.
Bản đồ mô tả trận chiến trên sông Bạch Đằng. Ảnh: Nguyentandung.org.
Là người thông minh lại nắm rõ quy luật lên xuống của thủy triều trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền nhận định: "Hoằng Tháo là đứa trẻ từ xa đến, quân lính mệt mỏi, lại nghe Kiều Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng nên mất vía trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt tất phá được".
Sông Bạch Đằng là cửa ngõ giao thông quan trọng phía đông bắc từ biển Đông vào đất Việt. Theo cửa Nam Triệu vào Bạch Đằng, địch có thể ngược lên và tiến đến thành Cổ Loa hoặc thành Đại La hoàn toàn bằng đường sông.
Trong khi đó, thủy triều lên từ nửa đêm về sáng, cửa biển rộng mênh mông, nước trải rộng ra hai bên bờ đến hơn 2 km. Đến gần trưa, triều rút mạnh, chảy ra rất nhanh. Như vậy, kế hoạch và việc lựa chọn chiến trường cho trận huyết chiến đã được quyết định là sông Bạch Đằng. Trận đánh chính sẽ diễn ra ở phía trong bãi cọc.
Bấy giờ vào cuối năm 938, trời rét, mưa dầm dề nhiều ngày. Quân và dân ta lặn lội mưa rét ngày đêm vận chuyển gỗ, dựng cọc. Hàng nghìn cây gỗ lim, sến, đầu được vạt nhọn và bịt sắt được đem về đây cắm xuống thành những hàng dài chắc chắn, đầu cọc hướng chếch về phía nguồn. Trong khoảng hơn một tháng thì mọi việc hoàn thành.
Theo dự kiến, Dương Tam Kha (con của Dương Đình Nghệ) chỉ huy đội quân bên tả ngạn, Ngô Xương Ngập (con trai cả của Ngô Quyền) và Đỗ Cảnh Thạc chỉ huy đội quân bộ bên hữu ngạn, mai phục sẵn, phối hợp thủy quân đánh tạt sườn đội hình quân địch, sẵn sàng diệt nếu địch chạy lên bờ.
Từ cửa biển ngược lên phía trên không xa, một đạo thủy quân mạnh phục sẵn do chính Ngô Quyền chỉ huy chặn ngay đường tiến lên của địch, chờ khi nước xuống sẽ đánh lại.
Chiến thắng vang danh lịch sử
Trận địa bố trí vừa xong thì binh thuyền Nam Hán kéo đến. Quân ta đợi lúc nước triều cường, đem đội khinh thuyền ra cửa sông khiêu chiến rồi giả thua chạy. Hoằng Tháo quả nhiên mắc mưu, thúc quân chèo thuyền, lũ lượt tiến qua bãi cọc đi sâu vào trong sông.
Cầm cự đến lúc triều xuống, rừng cọc gỗ lim nhô đầu nhọn lên mặt nước. Thuyền Nam Hán bị trúng cọc bọc sắt, đua nhau chìm, lật. Bấy giờ, Ngô Quyền mới dốc tổng lực ra đánh. Quân Nam Hán hỗn loạn, mười phần thì chết chìm hoặc bị quân ta giết đến 6, 7 phần. Tướng giặc là Lưu Hoằng Tháo bị giết tại trận.
Tượng Ngô Quyền ở Hải An, Hải Phòng. Ảnh: Ngotoc.vn
Trận đánh chỉ diễn ra trong chưa đầy một ngày, không chỉ phá tan trăm vạn quân của Lưu Hoằng Tháo mà còn chôn vùi vĩnh viễn tham vọng xâm chiếm nước ta của nhà Nam Hán. Sách sử chép: "Vua Hán thương khóc, thu nhặt quân còn sót mà rút lui".
Ca ngợi chiến công của Ngô Quyền, sử gia Lê Văn Hưu viết: "Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới hợp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Thao, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám sang nữa. Có thể nói, một cơn giận mà yên dân được, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy".
Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền tự xưng Vương, chọn kinh đô là Cổ Loa, mở ra thời kỳ độc lập và chấm dứt nghìn năm Bắc thuộc. Ông trị vì được 6 năm thì mất.
Theo Zing
Khách bị "chém đẹp" khi gửi xe đi bộ quanh Hồ Hoàn Kiếm Giá vé niêm yết với xe máy là 5.000 đồng vào buổi đêm nhưng các điểm trông giữ xe để đi bộ quanh Hồ Hoàn Kiếm đều tăng giá. Theo thông báo của các cơ quan chức năng trước khi chính thức khai trương không gian đi bộ quanh Hồ Hoàn Kiếm, sẽ có 78 điểm trông giữ xe để phục vụ người...