Ngữ liệu sách giáo khoa… cần lựa chọn phù hợp
Khi đưa vào sách giáo khoa người biên soạn nên cân nhắc, chọn lựa ngữ liệu có tính phổ quát, đảm bảo tính giáo dục, phù hợp nhận thức, tâm lý lứa tuổi học sinh
Ngữ liệu – bao gồm ngữ liệu văn học và ngữ liệu từ ngữ, là một bộ phận quan trọng hàng đầu, không thể thiếu được khi soạn sách giáo khoa ngữ văn các cấp học nói chung và sách tiếng Việt tiểu học nói riêng.
Trong đó, ngữ liệu từ ngữ tiếng Việt bao gồm từ tiếng Việt và những đơn vị từ vựng tiếng Việt khác có tư cách tương đương với từ như cụm từ tự do, thành ngữ, tục ngữ…
Ngữ liệu được đưa vào sách giáo khoa tiểu học để cung cấp cho học sinh kiến thức, trang bị kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, đồng thời bồi dưỡng cho các em thái độ, tình yêu đối với tiếng mẹ đẻ.
Vừa rồi nhân có dịp tra cứu lại sách giáo khoa tiếng Việt 4, tập 1 hiện hành, chúng tôi nhận thấy các nhà soạn sách đã khá công phu khi chọn đưa vào sách nhiều ngữ liệu tiếng Việt phong phú, đa dạng, gồm nhiều tục ngữ, thành ngữ, giúp học sinh mở rộng vốn từ khi học các chủ điểm trong phân môn Luyện từ và câu.
Cụ thể, nội dung bài mở rộng vốn từ chủ đề Nhân hậu – Đoàn kết tuần 2 (trang 17), nêu câu hỏi:
a) Môi hở răng lạnh.Các tục ngữ dưới đây khuyên ta điều gì, chê điều gì?
a) Ở hiền gặp lành.
b) Trâu buộc ghét trâu ăn.
c) Một cây làm chẳng nên non
d) Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Bài mở rộng vốn từ chủ đề Nhân hậu – Đoàn kết tuần 3 (trang 33):
Em hiểu nghĩa các thành ngữ, tục ngữ dưới đây như thế nào?
b) Máu chảy ruột mềm.
c) Nhường cơm sẻ áo.
d) Lá lành đùm lá rách.
Sang nội dung bài mở rộng vốn từ chủ đề Trung thực – Tự trọng tuần 5 (trang 48), tác giả lại nêu dạng câu hỏi khác:
Có thể dùng những thành ngữ, tục ngữ nào dưới đây để nói về tính trung thực hoặc về lòng tự trọng?
Tiếng Việt 4 – tập 1, trang 88 (Ảnh: tác giả cung cấp).
a) Thẳng như ruột ngựa.
Video đang HOT
b) Giấy rách phải giữ lấy lề.
c) Thuốc đắng dã tật.
d) Cây ngay không sợ chết đứng.
e) Đói cho sạch, rách cho thơm.
Đến nội dung bài mở rộng vốn từ chủ đề Ước mơ tuần 9 (trang 87), tác giả hỏi:
Em hiểu các thành ngữ dưới đây như thế nào?
a) Cầu được ước thấy.
b) Ước sao được vậy.
c) Ước của trái mùa.
d) Đứng núi này trông núi nọ.
Nhìn chung, hầu hết các thành ngữ, tục ngữ trên đều quen thuộc, phổ dụng trong đời sống xã hội hàng ngày, dễ thuộc, dễ nhớ đối với mọi người và không quá xa lạ, khó tiếp nhận đối với học sinh lớp 4.
Tuy nhiên, riêng với thành ngữ “ước của trái mùa”, chúng tôi vẫn cảm thấy còn đôi chút băn khoăn. [1].
Trước hết là băn khoăn về tính phổ quát của thành ngữ trên.
“Ước của trái mùa” không hề có mặt trong cuốn “Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên – một cuốn từ điển đáng tin cậy, thông dụng hàng đầu mấy chục năm qua đối với các nhà nghiên cứu ngôn ngữ lẫn những người học tập, tìm hiểu, sử dụng tiếng Việt.
Tra cứu tiếp cuốn “Từ điển thành ngữ” của Nguyễn Lực – Lương Văn Đang cũng không thấy thành ngữ này.
Tiếp theo, chúng tôi còn thấy lấn cấn về ngữ nghĩa của nó.
Theo như gợi ý trả lời trong nhiều tài liệu hướng dẫn học sinh học tập mà chúng tôi tham khảo được, nghĩa của thành ngữ trên đều thống nhất là: “Muốn những điều trái với lẽ thường”.
Vậy nhưng, sau khi tra cứu nhiều từ điển khác, chúng tôi tìm thấy thành ngữ “ước của trái mùa” có mặt trong “Đại từ điển Tiếng Việt” và “Từ điển Thành ngữ – Tục ngữ Việt Nam”, thì cả 2 cuốn từ điển trên đều thống nhất giải thích nghĩa của thành ngữ “ước của trái mùa” giống y hệt nhau và không hoàn toàn giống nghĩa trong sách giáo khoa:
- “ước của trái mùa: Thèm muốn những điều trái với lẽ thường (thường nói về tình ý, quan hệ nam nữ không bình thường)” [2].
Từ điển thành ngữ – Tục ngữ Viết Nam, trang 594 (Ảnh: tác giả cung cấp).
- “Ước của trái mùa: Thèm muốn những điều trái với lẽ thường (thường nói về tình ý, quan hệ nam nữ không bình thường)” [3]. (Chúng tôi nhấn mạnh).
Đại từ điển Tiếng Việt, trang 1782 (Ảnh: tác giả cung cấp).
Như vậy, nghĩa của thành ngữ “ước của trái mùa” được cung cấp cho học sinh lớp 4 bị cắt xén, giản lược bớt chứ không phải ở dạng đầy đủ, cho nên không chuẩn xác, trọn vẹn như nó vốn có trong 2 từ điển trên.
Thực ra, với thành ngữ trên, nếu giải thích tường tận, đầy đủ cho học sinh còn non nớt ở độ tuổi lớp 4 quả là khó khăn, chẳng biết phải luận giải sao cho thỏa đáng: thế nào là “quan hệ nam nữ không bình thường”.
Chúng ta đều biết, đặc điểm tâm lý, suy nghĩ, cảm xúc của trẻ tiểu học trong độ tuổi từ 6 đến 11 tuổi là một trong những vấn đề khiến thầy cô khó nắm bắt và thấu hiểu được.
Đây là giai đoạn chuyển tiếp từ thời thơ ấu sang thời niên thiếu vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển thể chất, trí tuệ và hình thành nhân cách của trẻ.
Trong độ tuổi này, trẻ xuất hiện nhiều cảm xúc và tâm lý mới, sẽ tiếp cận thế giới thông qua cả lý trí và suy nghĩ.
Cho nên, đây là “độ tuổi của những thắc mắc”, học sinh sẽ đặt ra vô số câu hỏi cho thầy cô và cần câu trả lời hợp lý, không qua loa, đại khái; nếu thầy cô giải thích nửa vời, bớt xén về nghĩa, thì có thể đem lại suy nghĩ sai lệch cho học sinh còn quá nhỏ.
Như vậy, thành ngữ “ước của trái mùa” vừa thuộc loại ít dùng, vừa dễ có khả năng gây “tác dụng ngược” khi thầy cô đi vào giải thích tường tận cho học sinh.
Cho nên, để tránh tình trạng “tai nạn nghề nghiệp” đáng tiếc khi thầy cô trả lời cho học sinh trên lớp, theo chúng tôi không nên đưa câu thành ngữ “ước của trái mùa” vào sách giáo khoa tiếng Việt 4, mà nên thay thế bằng một thành ngữ khác lành mạnh, phù hợp hơn có cùng chủ điểm “Trên đôi cánh ước mơ”.
Chúng ta đều biết rằng bản thân từ – ngữ không hoàn toàn thuần túy mang khái niệm tốt hay xấu, nếu được sử dụng đúng nơi, đúng lúc.
Nhưng có một số thành ngữ nếu dùng không đúng ngữ cảnh thì sẽ gây hiệu ứng “phản cảm”, nhất là đối với trẻ nhỏ, vì nó không phù hợp với tâm lý đối tượng học sinh ở từng lứa tuổi nhất định.
Công bằng mà nhận xét, như đã nêu ở trên, ngữ liệu từ ngữ trong tiếng Việt 4 phong phú, đa dạng, có nhiều ưu điểm nhất định. Các nhà làm sách đã cố gắng vận dụng lời ăn tiếng nói của người Việt ở mọi miền đất nước.
Để phục vụ kiểu bài mở rộng vốn từ thuộc phân môn Luyện từ và câu, tác giả chọn ra nhiều tục ngữ, thành ngữ phù hợp, đảm bảo tính giáo dục cao, từ đó giúp học sinh phân biệt nghĩa, nắm được nghĩa các đơn vị từ vựng này, nhớ được các thành ngữ, thành ngữ và sử dụng thuần thục trong giao tiếp, tạo lập văn bản.
Khi soạn sách giáo khoa Tiếng Việt tiểu học, việc lựa chọn ngữ liệu là cả một vấn đề khó khăn và kỳ công.
Để đưa một ngữ liệu vào sách giáo khoa, người biên soạn phải đọc rất nhiều và phải chọn lọc thật kỹ càng.
Ngữ liệu phải đáp ứng những kiến thức, kỹ năng ngôn ngữ cần dạy và đáp ứng các mặt tình cảm, nhận thức của học sinh, chứ không thể vì bí bách, khó tìm ngữ liệu mà lấy đại cho được rồi bớt xén về ngữ nghĩa cho phù hợp.
Với học sinh tiểu học, ngữ liệu cần đơn giản, dễ hiểu và trong sáng; không nên bớt xén nghĩa của đơn vị từ vựng trong từ điển; lại càng không thể vì lý do phù hợp chủ điểm mà bất chấp các yêu cầu về nhận thức, về tình cảm, tâm lý học sinh.
Trong sách giáo khoa, ngữ liệu được đưa vào giúp học sinh nắm kỹ nội dung bài học để đạt mục tiêu giáo dục.
Tuy nhiên, nhiều khi có một số ngữ liệu chưa phù hợp với lứa tuổi học sinh tiếp cận cũng như đặc trưng của tiếng Việt.
Vì vậy khi đưa vào sách giáo khoa, người biên soạn nên cân nhắc, chọn lựa ngữ liệu có tính phổ quát, đảm bảo tính giáo dục, phù hợp nhận thức, tình cảm, tâm lý lứa tuổi học sinh.
Trong lộ trình thực hiện chương trình và sách giáo khoa mới từ năm học 2020-2021, để sách giáo khoa ngày càng hoàn thiện, có lẽ các nhà làm sách cũng nên cân nhắc hơn nữa, trong việc lựa chọn ngữ liệu – nhất là ngữ liệu từ ngữ.
Tài liệu tham khảo:
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2012), Tiếng Việt 4, Tập 1, NXB Giáo dục, trang 88].
[2] Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào (2000), Từ điển thành ngữ – tục ngữ Việt Nam, NXB Văn hóa – Thông tin, trang 594].
[3] Nguyễn Như Ý chủ biên (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa – Thông tin, trang 1782].
Đỗ Thành Dương
Theo giaoduc.net
Cần minh bạch, hiệu quả trong quản lý, thẩm định sách giáo khoa
Thời gian qua, vấn đề sách giáo khoa (SGK) giáo dục phổ thông luôn thu hút sự chú ý quan tâm của dư luận xã hội. Bởi việc quản lý SGK hiện hành chưa chặt chẽ, trong khi công tác biên soạn và thẩm định SGK mới của ngành giáo dục còn nhiều vướng mắc, bất cập.
Phụ huynh và học sinh chọn mua sách giáo khoa tại một cửa hàng ở quận Ba ình (Hà Nội). Ảnh: Anh Sơn
Chậm cắt giảm chi phí
Theo tìm hiểu của chúng tôi, chuẩn bị bước vào năm học 2019-2020, Bộ Giáo dục và ào tạo (GD và T) đã triển khai chủ trương điều chỉnh giá bán SGK hiện hành của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam (NXBGD). Theo Bộ GD và T, qua kiểm tra, giá SGK in trên bìa theo đúng đăng ký với Bộ Tài chính và được giữ ổn định nhiều năm, thấp hơn giá các loại sách khác, trong khi chi phí phát hành tăng theo cơ chế thị trường. Giá SGK cần theo hướng tính đúng, tính đủ chi phí hợp lý và chống độc quyền, thao túng giá; cân đối hài hòa giữa lợi ích kinh tế của doanh nghiệp, mục đích phục vụ xã hội và người dân. Vì vậy, Bộ GD và T đã đưa ra nhiều yêu cầu về tiết giảm chi phí, nhất là các chi phí không cần thiết để tăng hiệu quả khi điều chỉnh giá SGK. Bộ GD và T chỉ đạo NXBGD thực hiện cấu trúc lại và nâng cao công tác quản trị doanh nghiệp. Trong đó, NXBGD rà soát, sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn đầu mối nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, người lao động. Xây dựng và hoàn thiện lại phương án chi trả tiền lương, tiền công của cán bộ quản lý, viên chức và người lao động phù hợp với điều kiện, hiệu quả kinh doanh. Cắt giảm đến mức thấp nhất chi phí đầu tư, chi phí trung gian, chi phí phát hành; hoàn thiện kế hoạch sản xuất 5 năm và kế hoạch sản xuất năm 2019. áng chú ý, để thực hiện cấu trúc lại cần thực hiện kiểm toán độc lập hoạt động của NXBGD liên tiếp trong ba năm, bảo đảm công khai, minh bạch hoạt động kinh doanh và các nguồn thu... Các công việc NXBGD triển khai, báo cáo Bộ GD và T trong tháng 4-2019.
Thực tế bước vào năm học 2019-2020, theo thông báo của NXBGD, giá SGK tăng bình quân từ 1.000 đến 1.800 đồng/cuốn. Năm 2019, dự kiến sản lượng SGK là hơn 108,5 triệu bản (giảm khoảng 5 triệu bản so với năm 2018) nhưng doanh thu đạt 844 tỷ đồng (tăng 110 tỷ đồng so với năm 2018), chiếm khoảng 60% tổng doanh thu. Theo Thứ trưởng GD và T Nguyễn Hữu ộ, đến tháng 10-2019, việc cấu trúc lại toàn bộ hệ thống để cắt giảm một số hoạt động, nhất là cắt giảm khâu trung gian; tính đúng, tính đủ, bảo đảm hợp lý, không lãng phí trong xuất bản SGK vẫn chưa được hoàn thiện. Hiện nay, Bộ GD và T đang yêu cầu NXBGD báo cáo việc triển khai cấu trúc lại, tinh gọn đầu mối, cắt giảm các chi phí...
Trong khi việc cắt giảm các chi phí còn kéo dài thì Bộ GD và T lại đồng ý để NXBGD vận dụng và xếp lương theo bảng lương của tổng công ty và tương đương. Theo Thứ trưởng Nguyễn Hữu ộ, việc xếp lương là cách "vận dụng" các quy định do doanh thu của NXBGD cao và từng được cho phép xếp hạng tổng công ty và tương đương từ trước. Tuy nhiên, theo các quy định tại Nghị định 52/2016/N-CP, NXBGD không đạt hạng tổng công ty và tương đương do không đáp ứng được tiêu chí vốn nhà nước trong doanh nghiệp, mà chỉ đạt tiêu chí công ty loại I. Như vậy, việc chậm hoàn thiện cấu trúc lại, cắt giảm chi phí và việc xếp hạng doanh nghiệp không đúng sẽ dẫn đến tăng chi phí, đi ngược với yêu cầu cắt giảm chi phí đầu tư, chi phí trung gian, chi phí phát hành, cơ cấu tiền lương, tinh giản biên chế... để nâng cao hiệu quả khi điều chỉnh tăng giá SGK.
Vướng mắc trong biên soạn SGK mới
Cùng với việc quản lý SGK hiện hành, thực hiện nghị quyết của Quốc hội và quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GD và T được giao tổ chức biên soạn "một bộ SGK" theo chương trình giáo dục phổ thông mới. Tuy nhiên, việc biên soạn một bộ SGK gặp khó khăn cho nên Bộ GD và T thực hiện việc biên soạn, xuất bản SGK mới theo phương thức không sử dụng ngân sách nhà nước. Có điều việc biên soạn SGK không sử dụng ngân sách gây nên những băn khoăn trong dư luận xã hội bởi nếu Bộ GD và T không biên soạn một bộ SGK thì sẽ lựa chọn bộ sách của đơn vị, cá nhân nào thay thế? Việc lựa chọn đó có dẫn đến tình trạng độc quyền hoặc bộ SGK được lựa chọn được "ưu ái" đưa vào nhà trường hay không?
áng chú ý, quá trình thẩm định SGK của các tổ chức, cá nhân cũng đang gây nhiều tranh cãi. Theo TS Thái Văn Tài, Vụ trưởng Giáo dục Tiểu học (Bộ GD và T), Hội đồng quốc gia thẩm định SGK (Hội đồng) đã tiếp nhận 49 bản thảo SGK lớp 1 của chín môn học để thẩm định. Trong đó, môn: Tiếng Việt sáu bản thảo; Toán sáu bản thảo; ạo đức sáu bản thảo; Tự nhiên - Xã hội năm bản thảo; Giáo dục Thể chất bốn bản thảo; Nghệ thuật (Âm nhạc) năm bản thảo; Nghệ thuật (Mỹ thuật) năm bản thảo; Hoạt động trải nghiệm sáu bản thảo; Tiếng Anh sáu bản thảo. Các hội đồng đã làm việc liên tục trong thời gian hơn ba tháng, qua hai vòng thẩm định với kết quả có 38 bản thảo được đánh giá "đạt" và đề nghị Bộ trưởng GD và T xem xét phê duyệt; 11 bản thảo được đánh giá "không đạt".
Tuy nhiên, quá trình thẩm định đã gây nhiều ý kiến trái chiều. Bởi việc thẩm định SGK dựa vào Thông tư 33/2017/TT-BGDT (Thông tư 33) với các tiêu chí còn chung chung, dẫn đến có thể bị "yêu, ghét" theo cảm tính. Mặt khác, chương trình giáo dục phổ thông mới được thiết kế hướng tới phẩm chất, năng lực, sự vận dụng, sáng tạo của học sinh. Vì vậy, nếu Hội đồng thẩm định chỉ chú trọng áp dụng cứng nhắc các tiêu chí chung theo Thông tư 33 sẽ mất đi những vận dụng, sáng tạo trong SGK mới. Thừa nhận vấn đề nêu trên, TS Thái Văn Tài cho biết, Thông tư 33 về thẩm định SGK có 13 tiêu chí nếu áp dụng cứng nhắc thì chưa ổn. Bởi 13 tiêu chí dành cho thẩm định SGK từ lớp 1 đến lớp 12 là một khoảng quá rộng. Vì vậy, tiêu chí chỉ là những điều căn bản nhất để áp dụng cho thẩm định SGK. Ngoài các tiêu chí của Thông tư 33, Bộ GD và T cũng đã mời các chuyên gia phân tích và xây dựng hệ thống thông số cần đạt để đưa vào thẩm định SGK. Tuy nhiên, hệ thống thông số chỉ được sử dụng nội bộ trong thẩm định chứ không công bố rộng rãi.
Một số chuyên gia giáo dục cho rằng, chương trình giáo dục phổ thông mới được quy định chỉ là điều kiện tối thiểu, có tính "pháp lệnh"; còn SGK là công cụ cho nên có tính "mở" và linh hoạt. Việc sử dụng SGK đến mức độ nào do người dạy và học, người chọn sách quyết định. Vì vậy, Thông tư 33 là văn bản pháp quy cho nên chỉ quy định được những điểm chung nhất, nếu áp dụng cứng nhắc vào đánh giá SGK là không hợp lý. Thí dụ, chỉ dựa vào các tiêu chí của Thông tư 33 để đặt vấn đề quá tải hay không là làm khó cho người biên soạn sách, vì có nhiều bộ SGK được dùng cho nhiều đối tượng và nhiều vùng khác nhau sẽ không thể giống nhau như một. Hay như trong thiết kế chương trình giáo dục phổ thông mới có phần "Hoạt động trải nghiệm", nhưng hiện nay nội dung này lại bị coi như một môn học và bắt buộc phải có SGK viết theo tiêu chí chung; như vậy tính chất "trải nghiệm thực tế" của hoạt động này sẽ không còn.
Dư luận xã hội không khỏi băn khoăn về việc lựa chọn thành viên thẩm định. Theo TS Thái Văn Tài, thành viên thẩm định phải am hiểu về khoa học giáo dục, có chuyên môn phù hợp và tham gia vào các hoạt động liên quan đến chương trình, SGK. Tuy nhiên, nếu nhìn tuyệt đối vào một cá nhân hay nhóm cá nhân nào đó thì không thể thẩm định SGK do mỗi người chỉ có một thế mạnh nhất định. Mặt khác, nhiều chuyên gia giáo dục đã tham gia viết SGK mới cho nên không thể đưa vào hội đồng thẩm định. Vì vậy, việc lựa chọn thành viên thẩm định cũng là vấn đề hết sức khó khăn đối với Bộ GD và T.
SGK giáo dục phổ thông liên quan đến mọi học sinh. Vì vậy, vấn đề quản lý SGK cần bảo đảm hiệu quả. Việc triển khai các bộ SGK mới cần chặt chẽ, rõ ràng, khách quan, bảo đảm chất lượng theo đúng định hướng nhằm thực hiện thành công đổi mới căn bản, toàn diện GD và T.
GIANG SƠN
Theo Nhân dân
Thẩm định sách giáo khoa mới: Năm người mười ý Bộ GD&ĐT có quy định rất rõ về thẩm định sách giáo khoa (SGK), nhưng theo chuyên gia, dù quy định theo tiêu chí nào, việc thẩm định vẫn phụ thuộc vào con người, nên đòi hỏi minh bạch, độc lập là rất khó. SGK Tiếng Việt 1- công nghệ đang được giảng dạy hiện hành. Ảnh: Như Ý Chiều 12/9, trao đổi...