Ngoại ngữ vẫn là điểm yếu của học sinh Việt Nam
Đó là một trong những kết luận của Báo cáo phân tích ngành giáo dục (giáo dục phổ thông) được công bố sáng 19/9 tại Diễn đàn giáo dục 2017.
Báo được công bố tại Diễn đàn giáo dục 2017 do Viện Khoa học Giáo dục và Văn phòng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) tại Việt Nam tổ chức.
Theo đó, kết quả đánh giá định kỳ cấp quốc gia đối với một số lớp đầu cấp và cuối cấp học như lớp 5, 6, 9, 11 nhằm theo dõi sự thay đổi về kết quả học tập của học sinh cho thấy, về tổng thể, tính trung bình, học sinh đều đạt được các chuẩn kiến thức – kỹ năng ở mức trên 50% ở các môn học.
Tuy nhiên, có sự khác biệt khá lớn giữa các vùng miền trong cả nước. Khu vực miền núi có tỷ lệ học sinh đạt chuẩn thấp hơn so với khu vực nông thôn và thành thị. Tỷ lệ học sinh dân tộc thường đạt chuẩn ở các môn học thấp hơn học sinh dân tộc Kinh.
Ngoại ngữ vẫn là điểm yếu của học sinh Việt Nam.
Ngoài ra, kết quả học tập của học sinh chưa đồng đều giữa các môn học. So sánh kết quả giữa các môn học thì ngoại ngữ vẫn là điểm yếu đối với học sinh Việt Nam. Đây chính là rào cản đối với học sinh Việt Nam khi tiếp tục học lên hoặc tham gia thị trường lao động trong bối cảnh Việt Nam hội nhập mạnh mẽ về mặt kinh tế và thương mại.
Từ kết quả nghiên cứu tại 3 tỉnh, thành phố tham gia khảo sát về việc triển khai hoạt động dạy học và phát triển năng lực ở một số lĩnh vực như năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực hợp tác cho thấy, công tác chỉ đạo dạy học phát triển năng lực học sinh đã và đang được triển khai khá mạnh mẽ dưới nhiều hình thức đa dạng.
Tuy nhiên, công tác chuẩn bị các điều kiện cho dạy và học phát triển năng lực cần được quan tâm hơn nữa để đảm bảo tính hiệu quả và xuyên suốt.
Cụ thể, cơ sở vật chất, điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện dạy và học phát triển năng lực vẫn chưa tương thích với phương pháp mới. Giáo viên vẫn tập trung nhiều vào việc cung cấp kiến thức cho học sinh, chưa quan tâm thỏa đáng đến việc phát triển năng lực và phẩm chất cho các em.
Áp lực thi cử cũng là rào cản đối với đổi mới phương pháp dạy học. Tâm lý và nhận thức của nhiều cha mẹ học sinh vẫn nặng về thành tích điểm số.
Video đang HOT
Nhiều kiến nghị với giáo dục phổ thông
Phát biểu tại Diễn đàn, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thị Nghĩa cho rằng báo cáo phân tích ngành Giáo dục giai đoạn 2011-2015 tập trung vào giáo dục phổ thông được thực hiện nhằm cung cấp kịp thời các minh chứng hỗ trợ Bộ GD&ĐT sơ kết thực hiện giai đoạn 1 (2011-2015) của Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020, đề xuất, khuyến nghị về định hướng và giải pháp thực hiện giai đoạn tiếp theo của chiến lược.
Thứ trưởng khẳng định kết quả phân tích ngành đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh toàn ngành Giáo dục đang triển khai đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Trong đó, báo cáo đã đưa ra được 3 khuyến nghị quan trọng.
Thứ nhất, tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục, đặc biệt là cho các đối tượng thiệt thòi, trẻ em khuyết tật, trẻ em nghèo.
Thứ hai, đổi mới giáo dục phổ thông, trong đó đặc biệt chú trọng tới đổi mới chương trình giáo dục phổ thông theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực người học; đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp, phân luồng sau trung học; đổi mới phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong dạy và học.
Thứ ba, đổi mới quản lý giáo dục, đẩy mạnh việc giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục, tăng cường hội nhập quốc tế trong giáo dục và đào tạo nhằm huy động nguồn lực và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực trong phát triển giáo dục.
Theo Thứ trưởng, sau Diễn đàn này, những phản hồi từ chuyên gia, các tổ chức quốc tế tại Việt Nam sẽ được tiếp thu nhằm hoàn thiện kết quả báo cáo phân tích ngành Giáo dục giai đoạn 2011-2015, đồng thời, đưa ra được những định hướng và giải pháp liên quan đến giáo dục phổ thông cho giai đoạn thứ hai (2016-2020) của Chiến lược phát triển giáo dục, nhằm đạt được mục tiêu 4 về phát triển bền vững là “đảm bảo chất lượng giáo dục toàn diện và công bằng, thúc đẩy cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người”.
Theo Đỗ Hợp / Tiền Phong
Những cảnh báo 'giật mình' tại diễn đàn giáo dục 2017
Bức tranh toàn cảnh giáo dục phổ thông Việt Nam giai đoạn 2011-2015 lần đầu được công bố.
Tại diễn đàn giáo dục 2017 do Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Bộ GD&ĐT và UNESCO tổ chức hôm qua 19/9, bức tranh toàn cảnh giáo dục phổ thông Việt Nam giai đoạn 2011-2015 lần đầu được công bố.
Quan ngại giáo dục vùng trũng
Trình bày báo cáo phân tích tại diễn đàn, PGS.TS Trần Thị Thái Hà, Giám đốc Trung tâm phân tích và dự báo nhu cầu đào tạo nhân lực, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, cho biết nhóm nghiên cứu sử dụng dữ liệu chung toàn quốc, sử dụng một số kết quả nghiên cứu của các dự án có liên quan và các thông tin, dữ liệu thu thập qua nghiên cứu thực tế tại 3 tỉnh/thành phố là Hà Nội, Gia Lai và Long An.
Báo cáo phân tích đã chỉ ra kết quả thực hiện một số mục tiêu về tiếp cận giáo dục của chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020. Theo đó, giáo dục vùng Đồng bằng sông Cửu Long có rất nhiều vấn đề đáng lo ngại.
Tỷ lệ nhập học chung ở cấp THCS trên toàn quốc có xu hướng tăng. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng này với Đồng bằng sông Cửu Long đạt thấp nhất cả nước, thấp hơn Đồng bằng sông Hồng từ 12%-13% mỗi năm học.
"Tỷ lệ nhập học chung thấp ở Đồng bằng sông Cửu Long có thể do nhiều nguyên nhân như điều kiện đi lại khó khăn, kinh tế cũng khó khăn, phụ huynh phải đi làm xa nên việc quan tâm đến học hành của con còn hạn chế", bà Hà cho hay.
Chất lượng giáo viên là yếu tố quyết định tới sự thành công của cải cách giáo dục. Ảnh: Hồng Vĩnh/Tiền Phong.
Ở bậc THPT, tỷ lệ nhập học chung của Đồng bằng sông Cửu Long cũng thấp nhất cả nước, chỉ đạt từ 45,65% đến 50,39%. Tỷ lệ nhập học đúng độ tuổi cấp THCS và THPT của Đồng bằng sông Cửu Long cũng đứng cuối bảng cả nước.
Cũng theo báo cáo phân tích, tỷ lệ bỏ học ở bậc phổ thông có xu hướng giảm. Tuy nhiên, nghiên cứu điển hình tại 3 tỉnh là Hà Nội, Long An và Gia Lai cho thấy số học sinh THPT bỏ học giảm dần với những tỷ lệ khác nhau. Trong đó, tỷ lệ bỏ học của học sinh nữ tại Long An, Gia Lai cao hơn so với cấp tiểu học và THCS.
"Chẳng hạn, khảo sát tại Long An cho thấy tại một trường THPT, tỷ lệ bỏ học lên đến 9,81% trong năm học 2014-2015, tăng hơn 2% so với năm học trước", bà Trần Thị Thái Hà nêu thực tế.
Không những thế, tỷ lệ kiên cố hóa trường lớp Đồng bằng sông Cửu Long cũng đạt thấp nhất ở cả 3 cấp học.
Khó đạt mục tiêu giáo viên THPT trên chuẩn
Bản báo cáo cũng cho thấy, thực trạng quy mô và chất lượng đội ngũ giáo viên: Tính đến năm học 2014-2015, cả nước có khoảng 900.000 giáo viên phổ thông; Trình độ của giáo viên có nhiều chuyển biến tích cực. Số giáo viên đạt trên chuẩn ngày càng tăng ở cả ba cấp học. Ở Tiểu học, năm học 2014-2015, tỷ lệ giáo viên trên chuẩn đạt gần 84%.
"Đối với tiểu học, quy định hiện tại trình độ tối thiểu là tốt nghiệp trung cấp sư phạm tiểu học hoặc chuyên ngành phù hợp với bộ môn giảng dạy trở lên. Do vậy, có thể chúng ta cần nâng mức chuẩn trình độ đào tạo tối thiểu là cao đẳng đối với giáo viên tiểu học", nhóm nghiên cứu đề xuất.
Đối với giáo viên THCS, nhóm nghiên cứu nhận định có thể đạt được mục tiêu đến năm 2020 có 88% giáo viên có trình độ đào tạo trên chuẩn. Nhưng với bậc THPT, trình độ giáo viên đạt trên chuẩn hiện nay mới chiếm tỷ lệ 12%.
Như vậy, so với mục tiêu đặt ra của chiến lược là có 16,6% giáo viên THPT đạt trình độ đào tạo trên chuẩn là khó đạt được đối với nhiều tỉnh thành phố hiện nay. Hiện tại, quy định chuẩn đào tạo của giáo viên THPT là ĐH, vậy giáo viên có trình độ trên chuẩn là sau ĐH.
Đạo đức nghề nghiệp của giáo viên cũng được nhóm nghiên cứu nhắc tới. "Thực tế cho thấy một bộ phận sinh viên đăng ký học sư phạm là do không phải đóng học phí hoặc do ảnh hưởng từ cha mẹ, thầy cô. Có nơi còn thiếu quy hoạch đào tạo giáo viên dẫn tới tình trạng sinh viên tốt nghiệp sư phạm không có việc làm. Do đó, các trường sư phạm khó tuyển được học sinh giỏi", nhóm nghiên cứu của PGS.TS Trần Thị Thái Hà nhận định.
Nhóm đã phỏng vấn giáo viên tại 3 tỉnh là Hà Nội, Long An, Gia Lai, cũng cho thấy điều này. Yếu tố đầu vào sư phạm sẽ ảnh hưởng quan trọng đến tính trách nhiệm, sự nhiệt tình, tâm huyết, gắn bó với nghề giáo.
Trong khi đó, sắp tới, để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo, cần phải quan tâm đến việc nâng cao trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ nhà giáo. Muốn thế, phải tuyển chọn được những sinh viên có phẩm chất, năng lực phù hợp vào sư phạm.
Trước những tồn tại ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng giáo dục, đổi mới giáo dục, nhóm nghiên cứu đã đưa ra một số khuyến nghị đối với Bộ GD&ĐT. Trong đó, về đội ngũ nhà giáo, nhóm nghiên cứu cho rằng nếu không đảm bảo được yêu cầu, điều kiện chuẩn hóa, nên xem xét việc điều chỉnh mục tiêu về giáo viên trên chuẩn ở các cấp học.
Mặt khác, việc thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới đòi hỏi có sự thay đổi tiêu chuẩn về năng lực đội ngũ giáo viên theo hướng dạy học tích hợp và phân hóa. Do đó, cần xem xét việc nâng cao chuẩn đào tạo thay vì tăng tỷ lệ trên chuẩn của giáo viên.
Bên cạnh đó, cần chú trọng đặc biệt tới năng lực của giáo viên, yêu cầu giáo viên đạt trình độ nghiệp vụ đáp ứng với đổi mới chương trình giáo dục và sách giáo khoa mới.
Theo Nghiêm Huê / Tiền Phong
Có thể nhận bằng tiến sĩ sau gần 2 năm học trực tuyến của trường Mỹ? Chương trình tiến sĩ ở Mỹ thường kéo dài 8 năm. Với hình thức đào tạo trực tuyến, việc rút ngắn thời gian học rất khó. Với sự phát triển của công nghệ thông tin, hình thức đào tạo trực tuyến dần trở nên phổ biến, đặc biệt tại nền giáo dục hàng đầu như Mỹ. Nó cho phép sinh viên không cần...