Nghịch lý tuyển sinh đại học ngành chính èo uột, ngành phụ tăng vọt
Tiến sĩ Lê Viết Khuyến cho rằng, việc giao chỉ tiêu cho các trường hiện nay cần phải điều chỉnh.
Xu hướng phát triển của các trường đại học hiện nay là không ngừng mở mới ngành nghề đào tạo để phù hợp trước mọi biến động của thị trường nhân lực.
Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngành đăng ký đào tạo phải phù hợp với nhu cầu của xã hội và người học, với yêu cầu nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế xã hội và phù hợp với năng lực, sở trường, chức năng, nhiệm vụ của trường. Việc mở ngành phải đáp ứng các điều kiện về đội ngũ giảng viên, cán bộ nghiên cứu cơ hữu, cơ sở vật chất, thiết bị, giáo trình theo yêu cầu từng nhóm ngành nghề khác nhau.
Tuy nhiên, thực tế qua khảo sát ở nhiều cơ sở giáo dục đại học cho thấy, những ngành là thế mạnh, là công việc chính của nhà trường thì chỉ tiêu rất ít, điểm xét tuyển rất thấp trong khi đó những ngành “phụ” thì chỉ tiêu ồ ạt, điểm xét tuyển rất cao, thậm chí ngang ngửa với các ngành học hấp dẫn của trường tốp đầu.
Ảnh minh họa: Ngọc Diệp
Nhìn nhận từ câu chuyện này, chia sẻ với Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Lê Viết Khuyến – Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam nhớ lại, cách đây vài năm khi ngành Kế toán lên ngôi, đâu đâu cũng thấy mở ngành Kế toán. Oái oăm ở chỗ, có cơ sở giáo dục vốn chuyên đào tạo nguồn nhân lực của ngành chuyên môn rất hẹp nhưng chỉ tuyển được 15-20 thí sinh trong khi đó chạy theo thị hiếu xã hội nhà trường tuyển được 700-800 chỉ tiêu cho ngành Kế toán.
Chính vì vậy, Tiến sĩ Lê Viết Khuyến cho rằng, việc giao chỉ tiêu cho các trường hiện nay cần phải điều chỉnh.
Trước tiên, muốn được giao chỉ tiêu cho ngành A thì bản thân các trường phải công khai, minh bạch về điều kiện đào tạo ngành A này xem cơ sở vật chất thế nào, đội ngũ giảng viên ra sao, chương trình như thế nào… không thể chỉ có 7-8 giảng viên cơ hữu/ ngành mà tuyển 700-800 chỉ tiêu, chứ hiện nay các trường khi làm đề án tuyển sinh chỉ nêu tổng số giảng viên chứ không phải của từng ngành.
Video đang HOT
Thứ hai, cần kiểm định ngành đào tạo và công bố công khai kết quả này, nếu không đạt thì không cho đào tạo, hoặc không công nhận cấp bằng. Tuy nhiên hiện nay chúng ta đang rất cần kiểm định chương trình trong khi còn chưa có chuẩn chương trình nên cứ luẩn quẩn mãi chưa làm được.
“Muốn kiểm định chương trình thì phải có chuẩn chương trình từng ngành chứ hiện nay các tiêu chí kiểm định mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành còn rất chung chung”, thầy Khuyến nói.
Thứ ba, cần phải công khai tỷ lệ sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp 1 năm ở từng ngành đào tạo chứ không phải con số chung chung như hiện nay. Nếu tỷ lệ có việc làm thấp thì phải chủ động giảm chỉ tiêu tuyển sinh và đương nhiên sẽ rất ít thí sinh dám vào học.
“Làm được 3 điều này thì người học sẽ lựa chọn dễ dàng vì mọi thứ đã minh bạch, chứ hiện nay còn rất mập mờ. Và cũng dựa vào 3 yếu tố trên để cơ quan quản lý nhà nước là Bộ Giáo dục và Đào tạo sử dụng quyền của mình là có duyệt chỉ tiêu cho ngành đó hay không”, Tiến sĩ Khuyến nhấn mạnh.
Đồng tình với quan điểm này, Phó giáo sư Bùi Thị An – Đại biểu Quốc hội khóa 13 cho rằng, điều tiên quyết đối với giáo dục trong đó có giáo dục đại học đó là công khai minh bạch tất cả các khâu.
“Đào tạo ở đại học là đào tạo chuyên sâu, muốn được như vậy thì phải tập trung các lĩnh vực là thế mạnh của mình. Bởi lẽ, ông cha có câu “nhất nghệ tinh”, chỉ có như thế mới thúc đẩy xã hội phát triển được chứ việc gì cũng muốn tham gia vào nhưng cái nào cũng làng nhàng, không có gì có đặc sắc, điểm nhấn thì xã hội không cần. Chúng ta cần người giỏi chuyên môn, năng động sáng tạo chứ không phải cái gì cũng biết mà chẳng chuyên sâu cái gì”, bà An nhấn mạnh.
Thông tư 17/2021/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định về chuẩn chương trình đào tạo; xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình đào tạo các trình độ của đại học có hiệu lực từ ngày 7/8 yêu cầu các chương trình đào tạo phải xác định được chuẩn đầu ra rõ ràng và thiết thực, thể hiện kết quả học tập mà người tốt nghiệp cần đạt được. Phải đo lường, đánh giá được theo các cấp độ tư duy, làm căn cứ thiết kế, thực hiện và cải tiến nội dung, phương pháp giảng dạy; kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và cấp văn bằng cho người học. Chuẩn đầu ra còn phải bảo đảm tính liên thông với chuẩn đầu vào của trình độ đào tạo cao hơn (nếu có), đồng thời tạo cơ hội liên thông ngang giữa các chương trình cùng trình độ đào tạo, nhất là giữa các chương trình thuộc cùng nhóm ngành, lĩnh vực…
Thông tư 17/2021 cũng đặt ra chuẩn về đội ngũ giảng viên và nhân lực hỗ trợ với chương trình đào tạo các trình độ của giáo dục đại học.
Theo đó, một chương trình đại học hoặc chương trình đào tạo chuyên sâu đặc thù trình độ bậc 7 phải có ít nhất 1 tiến sĩ ngành phù hợp là giảng viên cơ hữu để chủ trì xây dựng, tổ chức thực hiện chương trình đào tạo; có ít nhất 5 tiến sĩ có chuyên môn phù hợp là giảng viên cơ hữu để chủ trì giảng dạy chương trình.
Với đào tạo thạc sĩ, một chương trình phải có ít nhất 5 tiến sĩ ngành phù hợp là giảng viên cơ hữu, trong đó có một giáo sư hoặc phó giáo sư chủ trì xây dựng, tổ chức thực hiện chương trình đào tạo.
Với đào tạo tiến sĩ, giảng viên phải có chức danh giáo sư hoặc phó giáo sư; hoặc có trình độ tiến sĩ với năng lực nghiên cứu tốt. Một chương trình có ít nhất 1 giáo sư (hoặc 2 phó giáo sư) ngành phù hợp và 3 tiến sĩ ngành phù hợp là giảng viên cơ hữu.
Học bổng tiến sĩ cho 7.300 giảng viên: Tuyển chọn ra sao?
Từ nay đến năm 2030, sẽ có khoảng 7.300 giảng viên được cấp học bổng đào tạo tiến sĩ tại nước ngoài hoặc phối hợp giữa các trường đại học Việt Nam và trường đạt chuẩn chất lượng khu vực và thế giới
Theo Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học (ĐH) đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo (GD-ĐT) giai đoạn 2019-2030 (gọi tắt là Đề án 89) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, từ nay đến năm 2030, khoảng 10% giảng viên ĐH được đào tạo trình độ tiến sĩ.
Hơn 5.000 giảng viên được đào tạo tiến sĩ
Trong số này, 7% giảng viên được đào tạo toàn thời gian ở nước ngoài, 3% giảng viên được đào tạo trong nước và phối hợp giữa các trường ĐH Việt Nam với các trường ĐH nước ngoài đạt chuẩn chất lượng khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, khoảng 80% giảng viên các trường thuộc khối văn hóa, nghệ thuật và thể dục, thể thao đạt trình độ thạc sĩ trở lên. Các giảng viên này được đào tạo toàn thời gian ở nước ngoài và trong nước đạt chuẩn chất lượng khu vực và thế giới, cơ cấu hợp lý. Đề án cũng đặt ra mục tiêu thu hút được ít nhất 1.500 nhà khoa học, người có trình độ tiến sĩ đang công tác ở nước ngoài hoặc đang làm việc trong nước, ngoài các cơ sở giáo dục ĐH đến làm việc tại các cơ sở giáo dục ĐH Việt Nam.
Các đại biểu trao đổi tại tọa đàm chiều 22-4 (Ảnh: MINH PHONG)
Đến năm 2030, phấn đấu 100% cán bộ quản lý và giảng viên được bồi dưỡng nâng cao năng lực, trong đó chú trọng các năng lực của giảng viên về phát triển chương trình đào tạo, giảng dạy theo phương pháp hiện đại, nghiên cứu khoa học, ngoại ngữ và công nghệ thông tin.
Bộ GD-ĐT cho hay đối tượng của đề án là những người đã trúng tuyển hoặc đang theo học chương trình đào tạo trình độ tiến sĩ trong nước, nước ngoài hoặc liên kết trong nước và nước ngoài (nhưng không thuộc đối tượng của Đề án Đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ cho các trường ĐH và cao đẳng giai đoạn 2010 - 2020), cam kết trở thành giảng viên các cơ sở giáo dục ĐH tại Việt Nam.
Đối với mục tiêu thu hút được ít nhất 1.500 nhà khoa học, đối tượng được hướng đến là các nhà khoa học, người có trình độ tiến sĩ đang công tác ở nước ngoài hoặc đang làm việc tại các cơ quan, đơn vị trong nước, đủ tiêu chuẩn giảng viên và cam kết đến làm việc tại các cơ sở giáo dục ĐH ở Việt Nam.
Cần làm rõ chỉ tiêu hằng năm
Ngày 22-4, Bộ GD-ĐT tổ chức tọa đàm triển khai Đề án 89 với sự tham gia của lãnh đạo nhiều trường ĐH. Theo bà Nguyễn Thu Thủy, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH (Bộ GD-ĐT), cả nước có trên 73.000 giảng viên ĐH, trong đó số giảng viên đạt trình độ tiến sĩ là 28,8%. Để thực hiện được mục tiêu của đề án, trong 10 năm tới, cần đào tạo khoảng 7.300 giảng viên có trình độ tiến sĩ và trên 300 giảng viên thuộc khối văn hóa, nghệ thuật và thể dục thể thao có trình độ thạc sĩ. Theo lãnh đạo Vụ Giáo dục ĐH, để thực hiện nhiệm vụ này, các trường đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cả quy trình tuyển chọn, gửi giảng viên đi đào tạo, quản lý kinh phí, theo dõi quá trình đào tạo giảng viên cho tới việc sử dụng giảng viên sau đào tạo và bồi hoàn kinh phí đào tạo.
Để có thể triển khai Đề án 89 ngay trong khóa tuyển sinh năm 2021, GS-TS Trần Thị Vân Hoa, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế Quốc dân Hà Nội, đề nghị Bộ GD-ĐT cần sớm làm rõ quy trình đăng ký ngay trong năm nay. GS Trần Thị Vân Hoa cho rằng cần áp dụng một quy trình tuyển chọn để bảo đảm công bằng, Bộ GD-ĐT cần có lưu ý về yếu tố ngành nghề, vùng miền... để bảo đảm lựa chọn phù hợp. Theo Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế Quốc dân Hà Nội, bộ cần làm rõ chỉ tiêu cho từng năm đối với từng trường chứ không theo cả giai đoạn. Ngoài ra, cần có hình thức quản lý vấn đề bồi hoàn học bổng, chi phí đào tạo với tính ràng buộc, cam kết cao hơn đối với học viên, tránh khó khăn cho các trường về sau.
Theo PGS-TS Nguyễn Đắc Trung, Trưởng Phòng Đào tạo Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, hiện các trường vẫn giao nhiệm vụ giảng dạy cho người được cử đi học và áp dụng theo định mức 600 giờ/năm. Do đó, trách nhiệm của cơ sở đào tạo cử người đi học là phải bảo đảm toàn thời gian cho nghiên cứu sinh học tập và nghiên cứu. Theo lãnh đạo Vụ Giáo dục ĐH, Bộ GD-ĐT sẽ có văn bản hướng dẫn đến các cơ sở giáo dục ĐH để sớm triển khai thực hiện. Tuy nhiên, các trường cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết và báo cáo Bộ GD-ĐT để trên cơ sở đó xây dựng phương án tốt nhất để triển khai.
Nguồn ngân sách
Các khoản chi học bổng, học phí, các chi phí cho học viên được đào tạo trình độ tiến sĩ, thạc sĩ được lấy từ nguồn ngân sách trung ương. Nguồn kinh phí của các cơ sở giáo dục ĐH tập trung thực hiện các nhiệm vụ bồi dưỡng nâng cao năng lực của giảng viên và cán bộ quản lý, thu hút các nhà khoa học và người có trình độ tiến sĩ...
Triển khai đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ đáp ứng đổi mới giáo dục Chính sách học bổng đối với đào tạo toàn thời gian ở Việt Nam: Người được cử đi đào tạo được cấp học phí; sinh hoạt phí; kinh phí thực tập, tham gia hội thảo ở nước ngoài và khen thưởng (nếu có). Bộ Giáo dục và Đào tạo đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân đối với dự thảo Thông...