Ngăn chặn ‘bóng đen’ suy thoái kinh tế
Lạm phát leo thang khiến các ngân hàng trung ương chạy đua tăng lãi suất để kìm hãm đà tăng.
Các nền kinh tế phát triển ở châu Âu bắt đầu suy giảm, tỷ giá một loạt đồng tiền lớn lao dốc so với đồng USD và lãi suất cao đang gây áp lực cho các nước đang phát triển với gánh nặng nợ lớn.
Nhân viên phục vụ khách hàng tại một nhà hàng ở Los Angeles, bang California, Mỹ. Ảnh: AFP/TTXVN
Khó khăn chồng chất khiến 1/3 nền kinh tế toàn cầu có nguy cơ trải qua ít nhất 2 quý tăng trưởng âm liên tiếp trong năm nay và năm sau, gây thiệt hại khoảng 4.000 tỷ USD từ nay đến năm 2026 – tương đương với quy mô Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Đức. Đây là hồi chuông cảnh báo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB), nhắc nhở thế giới cần khẩn trương phối hợp và hành động cương quyết để tránh viễn cảnh xấu nhất có thể xảy ra.
Trong báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới mới nhất, IMF dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu trong năm 2023 sẽ giảm xuống 2,7% so với mức 2,9% đưa ra hồi tháng 7. Nguyên nhân là do lãi suất tăng làm chậm đà tăng trưởng nền kinh tế Mỹ trong khi châu Âu chật vật với giá khí đốt cao, còn Trung Quốc tiếp tục áp đặt các biện pháp phong tỏa nhằm ngăn chặn dịch COVID-19 và ngành bất động sản của nước này suy yếu. IMF cảnh báo nếu các nhà hoạch định không có biện pháp hiệu quả để ứng phó lạm phát, thế giới sẽ rơi vào suy thoái nghiêm trọng.
Tăng lãi suất là lựa chọn của nhiều ngân hàng trung ương để kiềm chế lạm phát trong bối cảnh giá cả tăng cao do thiếu hụt nguồn cung. Khoảng 90 ngân hàng trung ương khắp thế giới đã tăng lãi suất trong năm nay. Theo số liệu của WB, số lần tăng lãi suất do các ngân hàng trung ương trên thế giới công bố đã ở mức cao nhất kể từ năm 1970.
Video đang HOT
Việc nâng lãi suất sẽ làm tăng chi phí cho vay, giảm đầu tư và tiêu dùng, giúp phần nào kiểm soát lạm phát, nhưng cũng sẽ tạo ra lực cản với tăng trưởng kinh tế vốn đang trong quá trình phục hồi do đại dịch, đồng thời là khởi nguồn cho suy thoái tại nước giàu và dẫn đến khủng hoảng nợ tại nước nghèo. Nguy cơ xu hướng này kéo dài sang năm 2023, 2024 khiến WB đã hạ mức dự báo tăng trưởng của năm 2023 từ 3% xuống 1,9%, gần với ngưỡng gây suy thoái.
Trước đó, báo cáo thương mại và phát triển năm 2022 của Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) cũng cảnh báo việc các ngân hàng trung ương gần đây liên tục tăng lãi suất nhằm kiềm chế lạm phát là “một canh bạc liều lĩnh”, vì chính sách tiền tệ này có nguy cơ đẩy kinh tế thế giới vào cuộc suy thoái toàn cầu kéo dài, gây thiệt hại nặng nề hơn cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 và cú sốc đại dịch COVID-19.
Công nhân làm việc tại một nhà máy ở Herten, Đức. Ảnh tư liệu: AFP/TTXVN
Viễn cảnh kinh tế u ám sẽ khiến nhu cầu dầu mỏ giảm, dù nhu cầu này đang tạm tăng lên trong thời gian gần đây, khi các nước chuyển sang dùng dầu trong hoạt động sản xuất năng lượng do giá khí tự nhiên tăng cao, đặc biệt là tại châu Âu và Trung Đông. Trước những rủi ro bao trùm lên triển vọng của thị trường dầu mỏ cùng mối lo ngại nhu cầu giảm do kinh tế toàn cầu suy yếu, Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ và các đối tác (OPEC ) ngày 5/10 đã quyết định cắt giảm sản lượng dầu ở mức 2 triệu thùng/ngày từ tháng 11. Đây là lần cắt giảm sản lượng lớn nhất của OPEC kể từ năm 2020, khi đại dịch COVID-19 bắt đầu bùng phát.
Phần lớn các chuyên gia đều nhận định việc OPEC cắt giảm sản lượng sẽ khiến tình hình lạm phát tồi tệ hơn. Các nhà phân tích của PVM Oil Associates và Goldman Sachs dự báo giá dầu Brent sẽ lên tới 3 chữ số trong 3 tháng tới, và có khả năng leo lên 105 USD/thùng trong 6 tháng. Điều này sẽ làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng năng lượng tại châu Âu, vốn chủ yếu liên quan việc Nga giảm nguồn cung khí đốt tự nhiên. Lạm phát tăng vọt sẽ khiến chi tiêu mua sắm của người dân giảm theo.
Theo thống kê của IMF, giá thực phẩm tăng tới 50% kể từ năm 2019 trong khi giá năng lượng cũng tăng mạnh. Tỷ lệ lạm phát tại Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) trong tháng 9 đã lên tới 10% – mức cao kỷ lục kể từ khi đồng tiền này được đưa vào sử dụng năm 1999. Lạm phát kết hợp với giá thực phẩm và năng lượng tăng đã dẫn tới cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt. Hàng loạt cuộc đình công trong nhiều lĩnh vực ngành nghề đã diễn ra tại nhiều nước châu Âu như Anh, Pháp, Đức nhằm yêu cầu tăng lương để theo kịp đà tăng của lạm phát, gây gián đoạn nhiều hoạt động và dịch vụ kinh tế- xã hội. Trong bối cảnh một số quốc gia vẫn đang chật vật ứng phó với lạm phát và giá nhiên liệu tăng cao, giá dầu tăng sẽ khiến kinh tế trong nước càng thêm khó khăn.
Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) nhấn mạnh nền kinh tế suy giảm cùng với giá cả leo thang do kế hoạch cắt giảm sản lượng của OPEC đang khiến nhu cầu dầu trên thế giới chững lại. Với áp lực lạm phát không ngừng và lãi suất tăng vọt, giá dầu cao hơn có thể cho thấy điểm giới hạn về một nền kinh tế toàn cầu vốn đã ở bên bờ vực suy thoái. Theo phân tích của IEA, nguồn cung dầu thực tế bị cắt giảm hiện nay sẽ ở mức khoảng 1 triệu thùng/ngày, không phải 2 triệu thùng/ngày như OPEC đã tuyên bố.
Theo Phó Chủ tịch cấp cao của Rystad Energy, Jorge Leon, dù thấp hơn mục tiêu, song con số này cũng đủ để tác động lớn đến giá cả. Công suất hạn chế khiến việc một số thành viên OPEC không thể khai thác đủ sản lượng mục tiêu sẽ là nguyên nhân chính làm nguồn cung sụt giảm. Bên cạnh đó, việc các nước phương Tây siết chặt trừng phạt Nga – một đối tác quan trọng của OPEC, liên quan đến cuộc xung đột tại Ukraine có thể khiến thị trường dầu mỏ bị thắt chặt hơn.
Trong khi đó, cơ quan xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings lại tỏ ra lạc quan hơn khi tin rằng quyết định giảm sản lượng của OPEC sẽ không ảnh hưởng nhiều đến thị trường dầu mỏ toàn cầu do sản lượng bị cắt giảm trên thực tế sẽ thấp hơn. Báo cáo của Fitch Ratings chỉ ra rằng xu hướng tăng lượng dầu mỏ tồn kho trên toàn cầu đang nới rộng, chứng tỏ thị trường đang sản xuất dư thừa. Cơ quan này cho rằng OPEC sẽ hướng đến mục tiêu cân bằng thị trường dầu mỏ thông qua việc thay đổi hạn ngạch sản xuất và nguồn cung dầu thô. Theo đó, Saudi Arabia, Các Tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE), Kuwait và Iraq sẽ giảm sản lượng, trong khi nhiều nước OPEC khác vẫn còn dư hạn ngạch để tăng công suất như Nigeria, Angola, và Azerbaijan.
Một cơ sở lọc dầu ở Carson, California, Mỹ. Ảnh: AFP/TTXVN
Trên thực tế, không chỉ riêng quyết định của OPEC , bất kỳ sự gián đoạn về nguồn cung dầu mỏ của Nga đối với các nước ngoài Liên minh châu Âu (EU) hay ngoài Nhóm các nền công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7) có thể đẩy giá trên toàn cầu tăng cao, đồng thời gây thêm áp lực kinh tế đối với người dân. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang trong giai đoạn đầy thách thức do giá cả và lãi suất tăng mạnh đe dọa đà phục hồi trên toàn thế giới, IMF khẳng định các ngân hàng trung ương phải “hành động dứt khoát để đưa lạm phát về mức mục tiêu”. Mặt khác, tổ chức này cũng cảnh báo các nỗ lực nhằm giảm bớt chi phí thông qua các biện pháp giảm thuế, trợ giá và kiểm soát giá sẽ có thể gây tốn kém cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, việc cân nhắc một chính sách tài khóa phù hợp hiện ngày càng trở nên khó khăn, đặc biệt là với những nước nợ công cao đã dần mất năng lực tài chính sau thời gian phải ứng phó với đại dịch COVID-19. Theo IMF, thay vì trợ giá và giảm thuế hàng loạt, chính quyền có thể tập trung hỗ trợ tiền mặt giúp các hộ gia đình thu nhập thấp vượt qua “bão giá”. Đặc biệt, các nước thu nhập thấp cần thêm hỗ trợ nhân đạo và tài chính khẩn cấp vì nguồn lực còn hạn chế.
Từ năm ngoái, nền kinh tế thế giới liên tiếp chịu tác động của nhiều cú sốc như dịch bệnh, tình trạng gián đoạn chuỗi cung ứng, xung đột tại Ukraine, giá cả phi mã dẫn tới bất ổn xã hội tăng cao.Với loạt diễn biến tiêu cực như hiện nay, việc các ngân hàng trung ương sử dụng công cụ lãi suất để kiểm soát lạm phát ở mức cao nhất trong nhiều thập niên sẽ khiến các nền kinh tế khó tránh được kịch bản hạ cánh cứng. Tuy nhiên, IMF khẳng định việc ưu tiên chống lạm phát, tập trung vào nhóm dễ chịu tác động, hỗ trợ các nước thu nhập thấp, cũng như đảm bảo chính sách tài chính và tiền tệ luôn song hành sẽ giúp các nước đảm bảo ổn định kinh tế và xã hội, tạo đà cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, giúp kinh tế thế giới thoát được nguy cơ rơi vào suy thoái sâu.
JPMorgan: Kinh tế toàn cầu có thể rơi vào suy thoái vào giữa năm 2003
Trả lời phỏng vấn hãng CNBC ngày 10/10, Giám đốc điều hành JPMorgan Chase & Co Jamie Dimon cảnh báo Mỹ và kinh tế toàn cầu có thể rơi vào suy thoái vào giữa năm tới.
Trụ sở ngân hàng JPMorgan Chase ở New York, Mỹ. Ảnh: AFP/TTXVN
Theo ông Dimon, đà tăng của lạm phát, lãi suất, xung đột tại Ukraine và những tác động chưa thể ước tính từ chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) là những dấu hiệu về một cuộc suy thoái.
Ông Dimon cho rằng những thách thức trên đều rất nghiêm trọng và sẽ khiến Mỹ lẫn cả thế giới rơi vào suy thoái, trong đó nền kinh tế lớn nhất thế giới có thể suy thoái trong sáu đến chín tháng nữa.
Bình luận của ông Dimon được đưa ra giữa bối cảnh các ngân hàng lớn của Mỹ chuẩn bị công bố báo cáo doanh thu quý III/2022 từ cuối tuần này. Từ đầu năm đến nay, chỉ số S&P 500 đã giảm khoảng 24%, với tất cả ba chỉ số chính đều rơi vào vùng thị trường giá xuống.
Theo ông Dimon, chỉ số S&P 500 có thể giảm 20% so với mức hiện tại và lần giảm 20% tiếp theo sẽ "đau đớn" hơn nhiều lần đầu tiên. Đầu năm nay, ông Dimon đã cảnh báo các nhà đầu tư chuẩn bị cho một "cơn bão" kinh tế, khi JPMorgan, ngân hàng đầu tư lớn nhất của Mỹ, tạm ngừng hoạt động mua lại cổ phiếu trong tháng Bảy sau khi kết quả kinh doanh hàng quý thấp hơn dự kiến.
Hồi tháng Sáu, ngân hàng Goldman Sachs ước tính có 30% khả năng kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái trong năm tới, trong khi các nhà kinh tế tại Morgan Stanley dự kiến khả năng suy thoái trong 12 tháng tới vào khoảng 35%.
Mới đây, Chủ tịch Ngân hàng Thế giới (WB) David Malpass và Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) Kristalina Georgieva cũng cảnh báo nguy cơ suy thoái toàn cầu ngày càng tăng và kiềm chế lạm phát vẫn là bài toán khó giữa lúc bùng nổ xung đột tại Ukraine.
5 dấu hiệu cho thấy nền kinh tế thế giới sắp suy thoái Trên khắp thế giới, các thị trường đang có những các dấu hiệu cảnh báo rằng nền kinh tế toàn cầu đang tiến tới bờ vực suy thoái. Theo kênh CNN, câu hỏi bây giờ không phải là có xảy ra suy thoái hay không mà là khi nào xảy ra suy thoái. Trong tuần qua, những dấu hiệu cảnh báo tăng lên...