Nên chọn thi TOEFL hay IELTS?
Nếu đang có kế hoạch đi du học ở một quốc gia nói tiếng Anh để lấy bằng cử nhân hoặc thạc sĩ, bạn có thể sẽ phải nộp điểm IELTS hoặc TOEFL. Điều này khiến nhiều người học băn khoăn không biết nên chọn bài thi nào.
Mặc dù cả hai bài kiểm tra tiêu chuẩn này đều nhằm xác định trình độ tiếng Anh của người học bằng cách đánh giá các kỹ năng đọc, viết, nói và nghe, nhưng chúng lại khác nhau về hình thức, cách tính điểm,… Tùy thuộc vào mục đích, bạn nên xem xét để có chọn lựa phù hợp.
TOEFL được thi hoàn toàn trên máy tính, trong khi IELTS có hình thức làm bài trên giấy
IELTS là bài kiểm tra tiếng Anh được sử dụng cho mục đích học tập, nhập cư và làm việc, được chấp nhận bởi hơn 10.000 tổ chức tại 140 quốc gia trên toàn thế giới. Trong khi đó, TOEFL nhằm kiểm tra khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh trong các môi trường học thuật, được chấp nhận bởi hơn 8.500 học viện ở 130 quốc gia và tất cả 100 trường đại học hàng đầu thế giới.
Sự khác biệt chung
Các câu hỏi của kỳ thi TOEFL hầu hết là trắc nghiệm, trong khi IELTS có thể yêu cầu trả lời một loạt các dạng câu hỏi khác nhau như câu trả lời ngắn, điền từ và bài luận ngắn. Bài thi IELTS được hoàn thành trong 2 giờ 45 phút, còn TOEFL phải mất 4 giờ để hoàn thành.
TOEFL được thi hoàn toàn trên máy tính, trong khi IELTS có hình thức làm bài trên giấy (từ năm 2016, IELTS cũng đã áp dụng cả cách thi trên máy tính).
IELTS và TOEFL ưu tiên các phương thức tư duy và giải quyết vấn đề khác nhau. Vì TOEFL chủ yếu là trắc nghiệm, học sinh cần phải có khả năng suy nghĩ, phân tích để cân nhắc sự khác biệt giữa các lựa chọn. IELTS yêu cầu sử dụng trí nhớ nhiều hơn và dựa trên các kỹ năng hiểu rộng hơn vì học sinh phải đối mặt với các kiểu câu hỏi khác nhau.
Cấu trúc bài kiểm tra
Nói
Cả hai bài thi đều có phần nói, nhưng bài thi nói của IELTS được thực hiện trực tiếp với giám khảo, kéo dài từ 11-14 phút và có thể không nhất thiết cùng ngày với các phần thi khác. Trong khi đó, phần nói của bài thi TOEFL sẽ kéo dài khoảng 20 phút và diễn ra cùng ngày với phần còn lại của bài thi. Thí sinh sẽ trả lời 6 câu hỏi vào một micrô được thu âm và sau đó được gửi đến một nhóm 6 người đánh giá.
IELTS có nhiều giọng khác nhau, TOEFL chỉ có người Mỹ nói.
Viết
Video đang HOT
Phần thi viết của kỳ thi TOEFL được đánh máy; điều này trái ngược với kỳ thi IELTS là viết trên giấy. TOEFL yêu cầu phải hoàn thành hai nhiệm vụ: viết kết hợp – viết một đoạn tóm tắt về những gì bạn nghe được liên quan đến bài đọc và viết đơn thuần – nêu lên suy nghĩ của bản thân về một chủ đề chung, hoặc chủ đề được ưa thích.
Bài thi viết IELTS cũng có hai phần. Tuy nhiên, phần đầu tiên yêu cầu tóm tắt hoặc giải thích thông tin được trình bày dưới dạng đồ thị, biểu đồ, bảng hoặc sơ đồ. Trong phần thứ hai, bạn sẽ cần viết một câu trả lời dài 200-250 từ đưa ra quan điểm, lập luận.
Đọc
Các bài kiểm tra đọc cho cả hai kỳ thi khá giống nhau. Bài kiểm tra đọc TOEFL bao gồm 3 bài đọc, mỗi phần hoàn thành trong 20 phút. Câu hỏi dạng trắc nghiệm và chủ đề bài đọc mang tính chất học thuật.
Bài kiểm tra đọc IELTS có 3 phần, mỗi phần dài 20 phút. Chủ đề bài học cũng mang tính chất học thuật, nhưng câu hỏi có nhiều dạng (điền vào chỗ trống, sắp xếp…). Các câu hỏi cũng được thiết kế để kiểm tra mức độ hiểu văn bản.
Nghe
Hai bài kiểm tra này khác nhau khá nhiều trong phần nghe. Bài thi nghe TOEFL có độ dài từ 40-60 phút với các đoạn trích từ bài giảng hoặc các đoạn hội thoại. Bạn phải ghi chú trong khi nghe và trả lời một loạt câu hỏi trắc nghiệm sau đó. Trong khi đó, ở bài nghe IELTS, thí sinh có thể trả lời các câu hỏi trong khi nghe các đoạn ghi âm và sẽ có một số dạng câu hỏi và bài tập khác nhau với độ dài khác nhau.
Chấm điểm
Các phần nói và viết của TOEFL được chấm điểm dựa trên phạm vi từ vựng, phong cách viết và ngữ pháp. Điểm của bài thi IELTS được xem xét dựa trên các cấp độ riêng biệt như tính logic, liên kết, ngữ pháp và sự trôi chảy.
IELTS được chấm theo hệ thống thang điểm từ 1-9 với tổng điểm là trung bình của 4 điểm thành phần, làm tròn đến số thập phân thứ nhất. TOEFL là bài kiểm tra duy nhất được chấm 120 điểm.
Nên chọn bài thi nào?
Nếu muốn làm hồ sơ xin vào một trường học tại Mỹ hay Canada, TOEFL là chứng chỉ hợp lý nhất vì nó được chấp nhận bởi hầu hết các trường trung học, đại học tại đây.
Nếu muốn đến Anh, Australia hay New Zealand, IELTS là bài thi bạn cần cân nhắc. Bên cạnh đó, IELTS cũng được ưa chuộng bởi những người muốn kiểm tra trình độ tiếng Anh, vì khi kiểm tra cả 4 kỹ năng, kỳ thi IELTS phản ánh rất đầy đủ khả năng thực hành tiếng Anh của người thi.
Rối quy định chứng chỉ tiếng Anh
Việc chưa có những quy định cụ thể về quy đổi giữa các chứng chỉ tiếng Anh trong nước và quốc tế gây ra nhiều lúng túng cho người lao động và sử dụng lao động.
Sinh viên tại TP.HCM trong giờ học tiếng Anh - ĐÀO NGỌC THẠCH
Chứng chỉ quốc tế hay trong nước?
Nguyễn Hoàng Hải, tốt nghiệp ngành công nghệ thông tin Trường ĐH Khoa học tự nhiên TP.HCM năm 2019 đạt chuẩn đầu ra tiếng Anh của trường với chứng chỉ TOEFL, nhưng khi đi xin việc tại một công ty phần mềm họ lại yêu cầu phải có chứng chỉ IELTS.
"Doanh nghiệp không chấp nhận chứng chỉ TOEFL của em. Họ cũng không có căn cứ nào để quy đổi chứng chỉ trên ra khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc của Việt Nam. Quan trọng là em thấy hầu hết các doanh nghiệp hay nhiều cơ quan không sử dụng khung năng lực này mà chỉ yêu cầu các chứng chỉ quốc tế. Chính vì thế, em phải đăng ký đi học một khóa IELTS để thi lấy chứng chỉ nếu muốn vào làm việc tại công ty này".
Nguyễn Thu Hương, tốt nghiệp ngành tâm lý học Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM, đi xin việc tại một doanh nghiệp nước ngoài, Hương nộp chứng chỉ VNU-ETP với số điểm khá cao do ĐH Quốc gia TP.HCM cấp (chứng chỉ này được công nhận chuẩn đầu ra tại trường), nhưng phía doanh nghiệp lại không chấp nhận mà yêu cầu Hương phải có chứng chỉ IELTS. "Lý do là họ không biết đến chứng chỉ này. Em nộp hồ sơ mấy nơi, các doanh nghiệp đều yêu cầu chứng chỉ phổ biến hơn như IELTS, TOEIC", Hương cho biết.
Theo Hải, hiện có sự rắc rối và không thống nhất trong việc sử dụng các loại chứng chỉ trên ở các đơn vị sử dụng lao động, không chỉ vậy còn có sự khác nhau và vênh nhau về yêu cầu tiếng Anh giữa chuẩn đầu ra của trường ĐH với đầu vào của doanh nghiệp, nên ứng viên chính là người chịu thiệt thòi.
"Nếu đã đặt ra khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc của Việt Nam thì nên có quy định cụ thể rõ ràng mỗi loại chứng chỉ quốc tế tương ứng mức điểm số bao nhiêu thì rơi vào bậc nào của khung năng lực 6 bậc, khi có quy định rồi thì các doanh nghiệp dù yêu cầu chứng chỉ quốc tế như thế nào thì cũng nên căn cứ vào khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc của Việt Nam để tham chiếu thì mới có sự thống nhất", Hải đề xuất.
Sự việc mới đây về một số giáo viên nước ngoài dù có nhiều loại bằng cấp, chứng chỉ tiếng Anh nhưng vẫn chưa đủ điều kiện giảng dạy tại Việt Nam mà một trong những lý do chưa có sự quy đổi, thống nhất giữa quy định chứng chỉ trong nước và quốc tế là thêm một minh chứng cho câu chuyện này.
Chứng chỉ TKT về giảng dạy tiếng Anh hiện cũng chưa có hướng dẫn về việc quy đổi - ẢNH: M.T
Thiếu nhất quán giữa các khung năng lực ngoại ngữ
Ông Nguyễn Minh Trí, giảng viên tiếng Anh Trường ĐH Nguyễn Tất Thành, nhìn nhận: "Hiện đang có sự thiếu nhất quán giữa khái niệm khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc theo chuẩn chung châu Âu (CEFR - Common European Framework for Reference) và khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam khiến người học bị bối rối về bậc ngôn ngữ giữa 2 khung này. Ví dụ, điểm IELTS 6,5 theo chuẩn quốc tế là B2 bậc 4. Trên chứng chỉ cũng có ghi rõ B2 nhưng Việt Nam lại quy đổi thành C1 bậc 5 của người Việt".
Hiện đang có sự thiếu nhất quán giữa khái niệm khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc theo chuẩn chung châu Âu và khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dành cho Việt Nam khiến người học bị bối rối về bậc ngôn ngữ giữa 2 khung này
Ông Nguyễn Minh Trí - giảng viên tiếng Anh Trường ĐH Nguyễn Tất Thành
Ông Trí nhận định: "Việc không có quy định cụ thể về các thang quy đổi cũng gây khó khăn cho người lao động. Ứng viên sẽ dễ bị nhầm lẫn và khi chuẩn bị hồ sơ, ứng tuyển không đáp ứng chính xác yêu cầu của nhà tuyển dụng, làm mất thời gian của cả hai bên".
Ngoài ra, theo ông Trí, còn có tình trạng một số chứng chỉ chưa được phổ biến rộng rãi nhưng được quy đổi và công nhận tương đương ở một số trường. Chẳng hạn kỳ thi APTIS của Hội đồng Anh hay VNU-EPT của ĐH Quốc gia TP.HCM. Điều này dẫn đến thực trạng trường công nhận chứng chỉ nhưng doanh nghiệp không công nhận khiến người học phải bổ sung một chứng chỉ khác nếu muốn được tuyển dụng. Trường hợp của Nguyễn Thu Hương đã nêu ở trên là một ví dụ cho trường hợp này.
Theo ông Nguyễn Duy, giảng viên tiếng Anh thỉnh giảng Trường ĐH Văn Lang, đồng thời là giáo viên tại Trung tâm Anh ngữ The Language Academy, hiện tại ở Việt Nam có 4 loại chứng chỉ tiếng Anh quốc tế được công nhận rộng rãi nhất là IELTS, TOEFL, TOEIC và các chứng chỉ của Cambridge (FCE, CAE, CPE). Các trường đặt chuẩn đầu ra phổ biến nhất là TOEIC đối với các ngành không phải ngôn ngữ, và IELTS với các bạn học ngôn ngữ Anh/sư phạm tiếng Anh.
"Học viên học tại trung tâm tôi dạy thường gặp phải các vấn đề về chứng chỉ khi đi xin việc. Chẳng hạn hầu hết các trường yêu cầu chuẩn đầu ra đối với tiếng Anh là tính theo điểm TOEIC, nhưng cách dạy và luyện thi chứng chỉ này ở một số nơi chưa đảm bảo được việc phát triển kỹ năng nên xảy ra nhiều trường hợp đáp ứng được chuẩn đầu ra của trường nhưng khi đi làm vẫn gặp nhiều trở ngại khi phải sử dụng tiếng Anh. Bên cạnh đó, tiếng Anh mà doanh nghiệp yêu cầu thường khác với tiếng Anh học ở trường, vì mỗi công việc, mỗi doanh nghiệp lại có một mục tiêu sử dụng tiếng Anh riêng, do đó thường đòi hỏi chứng chỉ tiếng Anh khác với chứng chỉ mà các em đã đạt được ở trường ĐH, CĐ. Rất nhiều trường hợp sau khi đi làm rồi vẫn phải đi học tiếng Anh lại từ đầu", ông Nguyễn Duy chia sẻ.
Ông Nguyễn Duy cũng băn khoăn nếu như khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc của Việt Nam chưa thực sự tương thích với khung tham chiếu trình độ ngôn ngữ chung châu Âu (CEFR) thì sẽ gây nhầm lẫn hay tranh cãi. Chẳng hạn sinh viên ngôn ngữ Anh được yêu cầu đạt chuẩn C1 sau khi hoàn thành chương trình học, thì chuẩn C1 này sẽ được tính theo CEFR hay theo khung 6 bậc của Việt Nam? (còn tiếp)
Ý kiến
Cần sớm có hướng dẫn cụ thể
Việc quy đổi điểm IELTS sang khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc của Việt Nam là rất cần thiết vì IELTS được chấp nhận rộng rãi trên thế giới và ở nhiều trường học, cơ quan nước ta. Tôi mong Bộ GD-ĐT cần sớm có hướng dẫn, đồng thời thống nhất với cả các chứng chỉ khác nhằm tránh sự nhập nhằng, chồng chéo và tạo điều kiện thuận lợi cho người học và người lao động.
Thạc sĩ Châu Thế Hữu - Giảng viên tiếng Anh Trường ĐH Ngoại ngữ - Tin học TP.HCM
Càng quy định cụ thể, càng dễ thực hiện
Khái niệm "tương đương" trong chứng chỉ đào tạo ngoại ngữ rất khó thực hiện nếu không có hướng dẫn. "Khái niệm này rất chung và Bộ GD-ĐT cần hướng dẫn rõ những chứng chỉ nào về giảng dạy ngoại ngữ được xem là phù hợp và do đơn vị nào cấp thì được hiểu là phù hợp. Ví dụ, chứng chỉ TESOL về giảng dạy tiếng Anh hiện có rất nhiều đơn vị trong nước dạy như Trường ĐH Sư phạm, Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn nhưng cũng có nhiều đơn vị liên kết nước ngoài để đào tạo cấp chứng chỉ.
Trong khi đó, người học lại không biết rõ chứng chỉ đó do đơn vị đó cấp có được Bộ công nhận hay chưa. Song song đó còn nhiều chứng chỉ về giảng dạy tiếng Anh như TKT, CELTA, DELTA... hiện chưa thấy Bộ hướng dẫn là có đủ năng lực để dạy tiếng Anh ở Việt Nam hay không. Quy định nên càng cụ thể càng dễ làm".
Ông Nguyễn Minh Trí - Giảng viên tiếng Anh Trường ĐH Nguyễn Tất Thành
Dấu hiệu nhận biết tiếng Anh học thuật Xuất hiện trong các bài thi chuẩn hóa để du học, tiếng Anh học thuật có ngôn ngữ, từ vựng trang trọng và có nhiều tham chiếu, trích dẫn riêng. Làm chủ tiếng Anh học thuật, cả đọc viết lẫn nghe nói, thường được coi như điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa giấc mơ du học, thông qua các bài thi...