Nâng cao chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số: Tạo cú huých cho trường phổ thông dân tộc nội trú
Trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT) là loại hình trường công lập, chuyên biệt trong hệ thống giáo dục quốc dân với mục tiêu tạo nguồn đào tạo cán bộ và nguồn nhân lực có trình độ cho vùng dân tộc thiểu số (DTTS), miền núi.
Trong những năm qua, hệ thống các trường PTDTNT đã có nhiều nỗ lực nâng cao chất lượng dạy và học.
Giờ thực hành môn Tin học của học sinh Trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Bạc Liêu. Ảnh: QUÝ TRUNG
Theo Bộ Giáo dục và ào tạo (GD và T), năm học 2018-2019, toàn quốc có tổng số 316 trường PTDTNT ở 49 tỉnh, thành phố với 109.245 học sinh nội trú. Hệ thống trường PTDTNT đã và đang phát huy hiệu quả, nâng cao chất lượng giáo dục vùng DTTS. Ngoài việc dạy học văn hóa, các trường còn tổ chức các hoạt động như nội trú, nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe học sinh, giáo dục kỹ năng sống, hướng nghiệp, dạy nghề nhằm phát triển toàn diện về phẩm chất, năng lực.
Nhiều trường tổ chức các hoạt động lao động sản xuất như trồng rau, chăn nuôi để hình thành cho học sinh kỹ năng lao động, tạo dựng tinh thần, thái độ, tôn trọng lao động. Cô giáo Lê Thị Bạch, Hiệu trưởng Trường PTDTNT Pác Nặm (tỉnh Bắc Kạn) chia sẻ: Với đặc thù hơn 98% học sinh là người DTTS, trường đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với thực tế và đối tượng học sinh DTTS. Thí dụ lồng ghép kiến thức về môi trường vào các môn Sinh học, ịa lý; liên hệ về việc chặt phá rừng làm nương rẫy ở địa phương để giúp học sinh hiểu được về tác hại của chặt phá rừng, có ý thức trách nhiệm tuyên truyền, bảo vệ rừng. Ngoài ra, các thầy giáo, cô giáo tổ chức các hoạt động theo nhóm để học sinh chủ động tìm tòi, phát hiện kiến thức, diễn thuyết sản phẩm của mình, những khó khăn vướng mắc được giải đáp kịp thời.
Video đang HOT
Tuy nhiên, hiện nay, hệ thống trường PTDTNT cũng gặp phải những hạn chế, bất cập như cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ việc dạy và học còn thiếu, chưa đồng bộ; một số chính sách, chế độ đối với trường PTDTNT chưa phù hợp, thiếu một số chế độ, chính sách đặc thù cần thiết… Phó Hiệu trưởng Trường Hữu Nghị T78 (huyện Phúc Thọ, Hà Nội) cho biết: Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ việc dạy học, nuôi dưỡng, chăm sóc cơ bản ít được đầu tư, nâng cấp cho nên đều đã cũ, xuống cấp.
Công tác quản lý, chỉ đạo của trường gặp khó khăn do các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện của Bộ GD và T dành riêng cho các trường PTDTNT còn thiếu. ại diện Sở GD và T Trà Vinh chia sẻ: Mục tiêu của trường PTDTNT là thành lập cho con em DTTS, con em gia đình các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn. Tuy nhiên, số lượng xã, ấp có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh hiện nay rất ít, trong khi các DTTS đông, nhu cầu được học tập trong các trường PTDTNT lớn dẫn đến những bất cập trong phát triển trường PTDTNT.
ể thực hiện hiệu quả mô hình trường PTDTNT, nhiều địa phương đã có những giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học. Giám đốc Sở GD và T tỉnh ắk Nông Nguyễn Văn Toàn cho biết: Các cấp chính quyền trong tỉnh ưu tiên đầu tư ngân sách địa phương để xây dựng thêm các phòng học kiên cố, phòng học bộ môn, thư viện, khu nội trú gắn với đầu tư các công trình phụ như nhà ăn, nhà bếp…
Bên cạnh đó, toàn ngành giáo dục xây dựng và thực hiện chuẩn hóa đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục; phát triển đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu và chuẩn hóa về chất lượng đáp ứng nhu cầu vừa tăng quy mô vừa nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục. Thí dụ, tỉnh Kiên Giang khuyến khích triển khai mô hình giáo dục nhà trường gắn với thực tiễn sản xuất kinh doanh của địa phương cho các trường PTDTNT. Ngoài ra, toàn tỉnh tăng cường huy động các nguồn lực tài chính và các điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị bảo đảm việc tổ chức các hoạt động, giáo dục trong nhà trường theo hướng thực học, lý thuyết gắn với thực hành và thực tiễn.
Theo Phó Vụ trưởng Giáo dục dân tộc (Bộ GD và T) Lê Như Xuyên, Bộ đã phối hợp Ủy ban Dân tộc để xây dựng ề án tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng DTTS, miền núi trình Quốc hội, trong đó có những hoạt động, giải pháp về việc tích hợp chính sách dân tộc phát triển hệ thống trường chuyên biệt vùng DTTS, miền núi… Ngoài ra, Bộ GD và T sẽ rà soát văn bản quy phạm pháp luật, chính sách liên quan để phù hợp giai đoạn mới. Nhất là xây dựng cơ chế tự chủ đối với cơ sở mầm non, phổ thông, trong đó có sự tham gia tự chủ của các trường PTDTNT.
Bên cạnh đó, ngành giáo dục đẩy mạnh công tác truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền địa phương, đồng bào DTTS về chính sách và chủ trương của ảng, Nhà nước. Bộ GD và T sẽ lựa chọn một số sách giáo khoa lớp 1 về các môn tự nhiên, xã hội để dịch song ngữ sang tám thứ tiếng DTTS, nhằm nâng cao chất lượng và giúp phụ huynh có thể tham gia hỗ trợ giáo dục con em mình. ồng thời sẽ khảo sát và đưa ra tiêu chí đối tượng trường học và học sinh vùng khó khăn, trong đó có học sinh của các trường PTDTNT, phổ thông dân tộc bán trú được cung cấp sách giáo khoa miễn phí theo chương trình giáo dục phổ thông mới.
QUỲNH NGUYỄN VÀ NGUYÊN KHÔI
Theo Nhân dân
Chuyển biến trong giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi
Trong những năm qua, hoạt động giáo dục và đào tạo (GD và T) vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS và MN) đã có những chuyển biến đáng kể.
Hệ thống giáo dục chuyên biệt bao gồm trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT), trường phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT), trường dự bị đại học được quan tâm đầu tư, xây dựng ngày càng khang trang, bảo đảm đủ điều kiện để từng bước nâng cao chất lượng dạy và học.
Giờ tin học của học sinh Trường phổ thông dân tộc nội trú Tây Nguyên, TP Buôn Ma Thuột (ác Lắc). Ảnh: HỒNG THỦY
Theo Bộ GD và T, hiện nay, hệ thống trường chuyên biệt ở vùng DTTS và MN đã và đang khẳng định được vai trò trong việc tạo nguồn đào tạo cán bộ, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực; huy động tối đa học sinh trong độ tuổi tới trường, giảm tỷ lệ học sinh bỏ học, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; nâng cao dân trí và phát triển nguồn nhân lực ở vùng DTTS và MN. Cả nước hiện có hơn 3.600 trường chuyên biệt vùng DTTS và MN, trong đó có 315 trường PTDTNT, hơn một nghìn trường PTDTBT và 2.273 trường phổ thông có từ 30 học sinh bán trú trở lên.
Chất lượng giáo dục của các trường ngày càng tăng qua từng năm học. Riêng hệ thống trường PTDTNT có tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT đạt 90%, có hơn 50% số học sinh tốt nghiệp THPT và thi đỗ vào đại học, cao đẳng. Tỷ lệ học sinh đến trường tăng cao, học sinh lưu ban, bỏ học ngày càng giảm. Ngành giáo dục đã triển khai dạy tiếng DTTS trong nhà trường tại 22 tỉnh, thành phố với sáu thứ tiếng, gồm: Mông, Chăm, Khmer, Gia Rai, Ba Na, Ê ê. Công tác xóa mù chữ, tăng cường tiếng Việt cho học sinh vùng đồng bào DTTS được chú trọng. Nhiều chính sách ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục vùng đồng bào DTTS, vùng điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa được ban hành đã quan tâm đến nhiều mặt và nhiều đối tượng như trẻ em, học sinh, sinh viên, giáo viên và cơ sở giáo dục... Nhiều địa phương có chính sách hỗ trợ học phí và chi phí học tập cho học sinh, sinh viên người DTTS như: Cao Bằng, iện Biên, Quảng Trị, Gia Lai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Khánh Hòa, Quảng Ngãi, Quảng Nam, ồng Nai, ác Nông... Các chế độ, chính sách đối với cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh, sinh viên là người DTTS được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định. Qua đó đã khuyến khích công tác dạy và học, tạo sự bình đẳng trong giáo dục, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
ác Lắc là tỉnh có 47 dân tộc anh em cùng chung sống, tỷ lệ học sinh DTTS chiếm hơn 30% trong toàn ngành giáo dục. Vì vậy, nâng cao chất lượng cho học sinh DTTS cũng như triển khai thực hiện chế độ chính sách là việc được ngành GD và T cùng các cấp chính quyền địa phương đặc biệt quan tâm. Giám đốc Sở GD và T tỉnh ác Lắc Phạm ăng Khoa cho biết, tỉnh đã tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho các trường, đặc biệt đầu tư cho hệ thống trường PTDTNT. ến nay toàn tỉnh có 6 trong số 16 trường PTDTNT đạt chuẩn quốc gia (trong đó có năm trường PTDTNT cấp huyện và một trường PTDTNT cấp tỉnh). Còn tại Hà Giang, tỷ lệ học sinh người DTTS chiếm hơn 80% tổng số học sinh trong độ tuổi đến trường. Cơ sở vật chất, trường, lớp học ngày càng được đầu tư xây dựng, đáp ứng nhu cầu dạy và học, góp phần nâng tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi đến trường. Tỉnh Bình Thuận là địa phương tích cực, chủ động triển khai đưa các chính sách vào cuộc sống, huy động nguồn lực hỗ trợ cho các đối tượng được hưởng chính sách. ồng thời chỉ đạo các sở, ban, ngành liên quan hướng dẫn các cơ sở giáo dục nghiên cứu văn bản, rà soát các đối tượng được hưởng chế độ chính sách... nhờ vậy, chất lượng giáo dục được nâng lên.
Tuy nhiên, hiện nay, hệ thống trường chuyên biệt ở vùng DTTS và MN đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập như: Cơ sở vật chất nhiều trường chưa đạt mức tối thiểu theo quy định, trang thiết bị chưa được đầu tư đồng bộ; chất lượng và hiệu quả đào tạo chưa cao; đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục nhiều nơi còn bất cập, năng lực sư phạm, khả năng tổ chức hoạt động giáo dục của một bộ phận giáo viên còn hạn chế. Một số chính sách, chế độ đối với hệ thống trường chuyên biệt ở vùng DTTS và MN chưa phù hợp.
Theo Giám đốc Sở GD và T tỉnh Bình Thuận Phan oàn Thái, nhìn chung, chất lượng học tập của học sinh DTTS và MN thấp hơn mặt bằng của học sinh toàn tỉnh. Nguyên nhân là do đặc thù từng vùng miền và ảnh hưởng của điều kiện kinh tế gia đình, số lượng học sinh DTTS có nhu cầu học trung cấp nghề ngày càng ít. Ý thức học tập của các em chưa cao, bên cạnh đó phụ huynh ít quan tâm đến việc học tập của con em. ại diện Sở GD và T tỉnh An Giang cũng chỉ ra rằng, cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên thực hiện công việc tại các trường chuyên biệt có thời gian và khối lượng công việc nhiều hơn so với các trường bình thường nhưng vẫn chưa được hưởng thêm chế độ nào.
heo Bộ trưởng GD và T Phùng Xuân Nhạ, phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực các DTTS là một trong ba khâu đột phá chiến lược của đất nước. Tuy nhiên, công tác này đòi hỏi những cách tiếp cận mới, bảo đảm thiết thực và hiệu quả. Trong đó, chú ý điều chỉnh chương trình đào tạo cho học sinh vùng DTTS và MN; chính sách phân luồng, hướng nghiệp; đổi mới mô hình trường dân tộc nội trú, bán trú theo hướng tăng cường hòa nhập, nâng cao chất lượng tuyển sinh, chất lượng đào tạo; thay đổi hình thức hỗ trợ cho học sinh DTTS và MN phù hợp từng vùng miền... Thời gian tới, Bộ GD và T sẽ kiến nghị ban hành 11 chính sách mới và sửa đổi, bổ sung ba nhóm chính sách hiện hành nhằm tạo điều kiện cho GD và T vùng DTTS và MN phát triển thuận lợi và thực chất hơn.
QUỲNH NGUYỄN, THÙY DƯƠNG
Theo Nhân dân
Đối tượng tuyển sinh vào trường phổ thông dân tộc nội trú Trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT) là loại hình trường công lập, chuyên biệt trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trường được Nhà nước thành lập cho con em dân tộc thiểu số, con em gia đình các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nhằm góp...