Năm 2022, điểm số xếp hạng ĐH của Việt Nam bị giảm 0,8%, trong khi thế giới tăng
Điểm số xếp hạng đại học của Việt Nam trên bảng xếp hạng quốc tế đã giảm 0,8%, trong khi điểm trung bình của thế giới cao hơn và tăng 1.6%.
Ngày 28/3, Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng việt Nam và Tổ chức Times Higher Education đồng tổ chức Hội thảo trực tuyến về Quốc tế hóa giáo dục đại học “Internationalization Masterclass”. Chương trình nhằm giúp các trường đại học đánh giá công tác quốc tế hóa trong giáo dục của trường và tìm phương án giúp các trường xác định sứ mệnh và giá trị trên thị trường lao động của mình.
Hội thảo trực tuyến về Quốc tế hóa giáo dục đại học “Internationalization Masterclass”.
Chương trình có sự tham gia của Tiến sĩ Lê Viết Khuyến – Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam.
Về phía Tổ chức Times Higher Education có sự tham dự của bà Elizabeth Shepherd – Giám đốc điều hành, Dịch vụ tư vấn và ông David Watkins – Trưởng phòng dữ liệu khoa học. Hội thảo trực tuyến cũng đã kết nối với các trường đại học, cao đẳng trên cả nước cùng lắng nghe chia sẻ về vấn đề Quốc tế hóa trong giáo dục đại học.
Phát biểu tại chương trình, Tiến sĩ Lê Viết Khuyến chia sẻ, trong những năm qua, toàn cầu hóa đã có tác động rất mạnh đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Các nền giáo dục đã ứng phó với quá trình toàn cầu hóa này theo nhiều cách khác nhau nhưng nổi trội nhất là xu thế quốc tế hóa giáo dục đại học.
Tiến sĩ Lê Viết Khuyến – Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam chia sẻ tại buổi Hội thảo. (Ảnh: TT)
Ở Việt Nam, để thích ứng với xu hướng này, Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có nhiều chính sách, đề án khuyến khích tăng cường hợp tác quốc tế, hợp tác và liên kết đào tạo với các trường đại học trong khu vực, thế giới. Chúng ta đã có một số mô hình thành công nhưng cũng còn không ít vướng mắc khi triển khai.
Hội thảo trực tuyến “Quốc tế hóa giáo dục đại học” nhằm giới thiệu các kinh nghiệm thành công của quốc tế tới các cơ sở giáo dục Việt Nam với các chủ đề như: Các mô hình quốc tế hóa toàn cầu; Quốc tế hóa giáo dục tại Việt Nam; Tại sao các trường đại học nên có ưu tiên cho chiến lược này,…
Sau Hội thảo, các thành viên tham dự sẽ hiểu được cách để phát triển quan hệ đối tác nghiên cứu và giáo dục; Hình thành quan hệ đối tác trong ngành và chính phủ; Tăng tính di động toàn cầu: sinh viên quốc tế và học giả; Các chiến lược nâng cao danh tiếng quốc tế của trường; Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu và liên kết đến các trích dẫn.
Phó Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng việt Nam cũng gửi lời cảm ơn đến Tổ chức Times Higher Education đã cùng Hiệp hội tổ chức chương trình, mời những diễn giả giàu kinh nghiệm nhất trong lĩnh vực quốc tế hóa giáo dục đại học đến chia sẻ tại buổi hội thảo.
Chia sẻ tại chương trình, bà Elizabeth Shepherd khẳng định, vấn đề quốc tế hóa trong giáo dục đại học vô cùng quan trọng. Trong một thập kỷ qua, quốc tế hóa trong giáo dục đã và đang diễn ra sâu rộng với nhiều hoạt động khác nhau.
Video đang HOT
Quốc tế hóa giáo dục đại học là quá trình thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, là phản hồi liên quan đến các hoạt động quốc tế hóa của các trường đại học, đây là những tác nhân của thay đổi để hướng tới quốc tế hóa cộng đồng học thuật.
Hội thảo sẽ mang đến những thông tin hữu ích cho các trường về các chiến lược để thực hiện quốc tế hóa giáo dục đại học, đa dạng hóa tuyển sinh, đánh giá đo lường mức độ danh tiếng của một trường đại học, phát triển được những danh tiếng với những nỗ lực quốc tế hóa giáo dục đại học,…
Thực trạng xếp hạng thế giới của đại học Việt Nam
Ông David Watkins – Trưởng phòng dữ liệu khoa học của Tổ chức Times Higher Education cho biết, năm 2022 có 1662 cơ sở giáo dục đại học từ 99 quốc gia được xếp hạng vào bảng xếp hạng đại học thế giới (World University Ranking). Trong đó, Việt Nam có 5 cơ sở giáo dục được xếp hạng và đứng thứ 55.
Ông David Watkins chia sẻ về vị trí của Đại học Việt Nam trên bảng xếp hạng quốc tế. (Ảnh: TT)
Có một số trường đại học Việt Nam không tham gia xếp hạng được vì số lượng nghiên cứu còn hạn chế.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổ chức Times Higher Education, các chỉ số đánh giá xếp hạng các trường đại học Việt Nam thấp hơn so với trung bình của thế giới. Các chỉ số trích dẫn, chỉ số thu nhập của các trường đại học Việt Nam khá cao nhưng chỉ số cán bộ giảng dạy quốc tế, sinh viên quốc tế của Việt Nam còn thấp so với các trường đại học khác trên thế giới.
So với năm 2018, xếp hạng của các trường đại học của Việt Nam đã tăng lên, Năm 2020, Việt Nam chiếm 0.2% trong tổng số 1397 các trường được xếp hạng. Đến năm 2022 con số này tăng lên là 0,3% trong 1662 trường được xếp hạng.
Có 1341 trường đại học trên thế giới được xếp hạng trong cả ba năm 2020, 2021, 2022, Việt Nam chỉ có 3 trường đại học được xếp hạng trong cả 3 năm này. Trong đó, ngành được xếp hạng thường xuyên nhất là ngành kỹ thuật. Ba ngành vật lý, kỹ thuật và khoa học máy tính được xếp hạng trong cả 3 năm này.
Xét về điểm số xếp hạng chung, điểm số của Việt Nam có giảm. Cụ thể, từ 2020 – 2022, điểm số của Việt Nam đã giảm trong khi số lượng các trường đại học lọt vào bảng xếp hạng Thế giới đã tăng 1397 lên 1662.
Điểm xếp hạng đại học của Việt Nam trên bảng xếp hạng quốc tế đã giảm 0,8%, trong khi điểm trung bình của thế giới cao hơn và tăng 1.6%.
Về chỉ số cụ thể, khoảng thời gian từ năm 2020 – 2022, Việt Nam có cải thiện về trụ cột nghiên cứu so với thế giới nhưng lại tụt giảm về chỉ số trích dẫn quốc tế và chỉ số giảng dạy.
Chỉ số trích dẫn quốc tế của Việt Nam bị giảm 6.15 điểm, các chỉ số khác cũng có sự giảm sút, chỉ riêng chỉ số nghiên cứu tăng 0.2 điểm. Số điểm trích dẫn quốc tế, giảng dạy đều giảm làm ảnh hưởng đến điểm số cũng như xếp hạng của Việt Nam.
Một số chỉ số mà Việt Nam có sự cải thiện so với thế giới là: số tiến sĩ/trường đại học, uy tín về nghiên cứu, thu nhập nghiên cứu, uy tín giảng dạy, thu nhập/nhân viên.
Theo bà Elizabeth Shepherd, các trường đại học muốn phát triển quá trình quốc tế hóa cho cơ sở mình cần phải thực hiện 3 chiến lược chính.
Thứ nhất là chiến lược tuyển đầu vào sinh viên. Từ 2004 đến 2019,có 5 quốc gia có số lượng sinh viên quốc tế đến học ở Việt nam nhiều nhất là Lào, Campuchia, Hàn Quốc, Trung Quốc và Pháp.
Bà Elizabeth Shepherd chia sẻ tại chương trình Hội thảo. (Ảnh: TT)
5 quốc gia tiếp nhận nhiều sinh viên Việt Nam đến học nhất là Nhật Bản, Hoa Kỳ, Australia, Hàn Quốc, Canada. Đặc biệt, từ năm 2015 đến năm 2019, số lượng sinh viên Việt Nam du học tại Nhật Bản tăng từ 10.000 đến 40.000 sinh viên.
Theo khảo sát của THE, các yếu tố để sinh viên đánh giá độ danh tiếng của một trường đại học bao gồm kỳ vọng về khả năng giảng dạy chất lượng cao/trải nghiệm học tập; Cơ hội nghề nghiệp/khả năng xin việc, thu nhập và khả năng thăng tiến trong sự nghiệp; hiệu quả của trường đại học/triển vọng xếp hạng; Tính bền vững của trường đại học khi thực hiện nghiên cứu, hoạt động hỗ trợ, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững,…
Thứ hai về chiến lược quốc tế hóa giáo dục thông qua hợp tác quốc tế, bà Elizabeth Shepherd cho biết, hợp tác quốc tế đã tăng lên trong thời gian gần đây ở các trường đại học, Tổ chức THE cũng đang hỗ trợ các trường đại học tìm kiếm các đối tác nghiên cứu mới để mang lại những lợi ích tốt nhất cho các trường.
Thứ ba là chiến lược phát triển danh tiếng của các trường đại học. Đây là yếu tố vô cùng quan trọng, góp phần thúc đẩy chiến lược quốc tế hóa giáo dục, có thể hỗ trợ các trường thực hiện tốt công tác tuyển sinh.
THE phân tích danh tiếng các trường dựa trên nền tảng các hoạt động chất lượng cao, đầu ra có chất lượng cao, thành tích có chất lượng cao
Tuy nhiên, các chương trình truyền thông được thiết kế chuyên nghiệp cũng là yếu tố quan trọng để cho thế giới biết các hoạt động chất lượng cao của trường đại học. Ngoài ra, việc tham gia xếp hạng đại học cũng cho biết danh tiếng của một cơ sở giáo dục đại học.
Thông tư đánh giá học sinh trung học: Đổi mới để trân trọng từng năng lực của học sinh
Cùng chương trình Giáo dục phổ thông (CT GDPT) 2018; Thông tư 22/2021 quy định về đánh giá học sinh THCS và THPT (gọi tắt là Thông tư 22) đã mang một "làn gió mới" vào các trường học trung học; đồng thời tạo sự động viên, khích lệ cho người học khi trân trọng từng năng lực của các em.
Thầy và trò tự tin hơn
Theo PGS.TS Nguyễn Xuân Thành- Vụ trưởng Vụ Giáo dục Trung học (Bộ GD&ĐT), tinh thần của Thông tư 22 là đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh (HS), coi trọng sự động viên, khuyến khích HS và sự tương tác giữa thầy và trò chứ không phải chỉ ghi nhận xét vào trong sổ. Giáo viên có thể nhận xét, đánh giá ngay ở những bài tập và không phải bởi những điều chung chung (có cố gắng, có tiến bộ) mà cụ thể, trực tiếp vào những nội dung dạy học trong quá trình dạy.
Thông tư 22 quy định 2 hệ thống môn học là các môn đánh giá chỉ bằng nhận xét (Giáo dục thể chất, Nghệ thuật, Âm nhạc, Mỹ thuật. Nội dung giáo dục địa phương, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp) và các môn đánh giá bằng nhận xét kết hợp điểm số (các môn học còn lại).
Thông tư 22 tôn trọng các năng lực khác nhau của học sinh
Tại thông tư này, không thấy xuất hiện các từ "yếu" hay "kém" vốn tạo cảm giác nặng nề cho người học nữa mà thay vào đó là cụm từ "chưa đạt". "Tuy cùng biểu thị mội nội dung nhưng ngôn từ đánh giá theo Thông tư 22 bao dung hơn, phần nào làm HS bớt mặc cảm"- cô Hoàng Thu Lan, giáo viên trường THCS Liên Mạc, huyện Mê Linh cho biết.
Một điều mới mẻ nữa thu hút nhiều sự quan tâm của HS, phụ huynh, đó là Thông 22 không lấy điểm trung bình các môn học làm căn cứ xếp loại học lực mà chỉ tính điểm riêng của từng môn. Cách đánh giá này được coi là "cởi mở" bởi giáo viên sẽ dễ dàng nhìn nhận được năng lực, xu hướng của từng HS; tạo cơ hội để HS được phát triển đúng năng lực, sở trường của mình
Tiêu chuẩn đánh giá học sinh theo Thông tư 22 yêu cầu với danh hiệu "Học sinh Giỏi" là mức "Đạt" (với môn đánh giá bằng nhận xét); và điểm trung bình môn học kỳ và điểm trung bình môn cuối năm (của các môn còn lại) đạt từ 6,5 điểm trở lên, trong đó có ít nhất 06 môn học đạt từ 8,0 điểm trở lên. Cách đánh giá này đã thiết lập một thái độ nhìn nhận ngang bằng giữa các môn học; xóa quan niệm cố hữu về các môn chính, môn phụ. Đây được coi là "nút mở" cho cả thầy cô và HS; nhất là với HS không có sở trường về các "môn chính" và các cô đang đảm trách "môn phụ" (theo cách nói trước đây).
Nâng tầm học sinh có năng lực nổi bật
Thông tư 22 có thêm danh hiệu "Học sinh xuất sắc" (đối với những HS có kết quả rèn luyện (cả năm) Tốt, kết quả học tập (cả năm) Tốt và có ít nhất 6 môn trung bình trên 9.
Vui mừng khi đọc điểm mới trên, phụ huynh Hứa Kim Hoa, quận Tây Hồ, Hà Nội bày tỏ: "Trước đây, danh hiệu cao nhất với cấp trung học là "Học sinh Giỏi" nên không phân biệt rõ những HS có năng lực vượt trội, toàn diện với HS giỏi thông thường. Nay có ghi nhận "Học sinh Xuất sắc" nên sẽ là đòn bẩy cho những HS muốn bứt phá. Theo tôi, việc bổ sung thêm tiêu chí này là rất ưu Việt; có giá trị nâng tầm, tôn vinh những HS tốp đầu và thực sự có thực lực".
Sẽ có thêm danh hiệu "Học sinh xuất sắc" đối với học sinh bậc trung học
Bày tỏ quan điểm về thông tư trên, ông Đặng Tự Ân- Giám đốc Quỹ Quốc gia đổi mới giáo dục phổ thông Việt Nam, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục tiểu học (Bộ GD&ĐT) cho biết: Đổi mới trong đánh giá HS đã được đề cập từ năm 2014 với bậc tiểu học; được điều chỉnh dần qua các năm và Thông tư 22 là sự kế tiếp, thể hiện hoàn chỉnh tiêu chí đánh giá HS theo tinh thần đổi mới giáo dục. Việc đánh giá học sinh tại Thông tư 22 sẽ giúp phát triển tốt đẹp quá trình giáo dục ở bậc trung học, khẳng định giá trị cốt lõi của giáo dục là phát huy năng lực của HS; do đó, thể hiện cho một nền giáo dục đi lên.
Tuy nhiên, không ít giáo viên, phụ huynh và HS cũng thắc mắc: Nếu theo cách đánh giá, xếp loại của Thông tư 22, lộ trình đổi mới trong thi cử, cụ thể là thi vào lớp 10 và thi tốt nghiệp THPT sẽ như thế nào bởi hiện tại các kỳ thi này, 3 môn Toán- Văn- Ngoại ngữ là môn cố định; và các trường đại học có tổ hợp xét tuyển "Toán- Văn- Ngoại ngữ" cũng rất nhiều. Giáo viên, phụ huynh, HS rất muốn biết sự thay đổi trong thi cử thời gian tới để có định hướng phù hợp cho các em trong quá trình học tập ở bậc trung học.
Thông tư 22 đánh giá kết quả học tập của người học theo 4 mức "Tốt, Khá, Đạt, Chưa đạt" đối với môn học đánh giá bằng nhận xét kết hợp với điểm số và 2 mức "Đạt, Chưa đạt" đối với môn chỉ đánh giá bằng nhận xét. Việc đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh được đánh giá theo một trong 04 mức: Tốt, Khá, Đạt, Chưa đạt.
Về hình thức khen thưởng, Thông tư 22 quy định Hiệu trưởng tặng giấy khen cuối năm ( cho "Học sinh Xuất sắc", "Học sinh Giỏi") và khen thưởng học sinh có thành tích đột xuất trong rèn luyện và học tập trong năm học. Với học sinh có thành tích đặc biệt sẽ được nhà trường đề nghị cấp trên khen thưởng.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 5/9/2021 và sẽ triển khai năm đầu tiên với lớp 6. Từ năm 2022 - 2023 sẽ theo lộ trình áp dụng cho lớp 7 và lớp 10; năm học 2023 - 2024 sẽ áp dụng cho lớp 8 và lớp 11; năm học 2024 - 2025 sẽ áp dụng với các lớp 9 và 12.
Chính thức bỏ Giấy khen "Học sinh tiên tiến" Việc khen thưởng danh hiệu "Học sinh tiên tiến" từ trước đến nay sẽ không còn tồn tại theo quy định mới về đánh giá học sinh THCS và THPT của Bộ GD-ĐT, áp dụng từ lớp 6 năm nay và với các khối lớp khác ở những năm tới. Bộ GD-ĐT vừa ban hành Thông tư 22/2021/TT-BGDĐT quy định về đánh giá...