Mỹ lo Trung Quốc “thế chân” ở quần đảo chiến lược
Một số quan chức Mỹ lo ngại rằng, Trung Quốc có thể thắng Mỹ trong cuộc đua cạnh tranh ảnh hưởng ở quần đảo chiến lược Marshall, giúp Bắc Kinh củng cố hơn nữa vị thế ở châu Á – Thái Bình Dương.
Ảnh chụp đảo san hô Majuro thuộc quần đảo Marshall (Ảnh: AP).
Trong nhiều thập niên, quần đảo Marshall nhỏ bé đã là một đồng minh vững chắc của Mỹ. Vị thế địa lý tuyệt vời, ở giữa Thái Bình Dương, đã khiến nó trở thành một tiền đồn chiến lược quan trọng của quân đội Mỹ.
Nhưng tất cả điều đó đang đối mặt nhiều thử thách, trong bối cảnh tranh chấp với Washington về các điều khoản của “Hiệp ước Liên kết Tự do”, thỏa thuận sắp hết hạn. Theo hiệp ước này, Mỹ chính thức chấm dứt chế độ quản lý quần đảo và Marshall trở thành nhà nước tự quản và liên kết tự do với Mỹ.
Một vấn đề đặt ra là Mỹ vẫn từ chối những yêu cầu của người dân Marshall về bồi thường thiệt hại môi trường và sức khỏe từ hàng chục vụ thử hạt nhân mà Washington đã thực hiện trong những năm 1940-1950, bao gồm một vụ nổ nhiệt hạch khổng lồ trên đảo san hô Bikini.
Mỹ nói rằng, việc từng tiến hành 67 vụ thử nghiệm hạt nhân trên quần đảo Marshall bao gồm cả hòn đảo san hô vòng Bikini, được cho là “vì lợi ích nhân loại”.
Mâu thuẫn trên khiến một số nghị sĩ Mỹ lo ngại Trung Quốc có thể sẵn sàng nhảy vào để lấy lòng Marshall và từng bước “hất cẳng” Mỹ, động thái có nguy cơ khiến cuộc chiến giành vị trí thống trị địa chính trị giữa hai siêu cường ngày càng gay gắt.
Video đang HOT
Kể từ Thế chiến II, Mỹ đã tăng cường quan hệ quần đảo Marshall, cùng với Micronesia và Palau. Tại quần đảo Marshall, Washington đã phát triển các cơ sở quân sự, tình báo và hàng không vũ trụ ở một khu vực mà Trung Quốc cũng rất thèm muốn.
Đổi lại, những khoản viện trợ và việc làm mà người Mỹ mang đến đã giúp nền kinh tế của quần đảo Marshall phát triển hơn. Và nhiều người dân Marshall đã tận dụng cơ hội để được đến sống và làm việc ở Mỹ. Hàng nghìn người dân Marshall đã chuyển đến Arkansas, Hawaii và Oklahoma.
Nhưng trong tháng này, 10 nghị sĩ đảng Dân chủ và Cộng hòa tại Hạ viện đã viết thư cho Cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Joe Biden, Jake Sullivan, về các cuộc đàm phán của Mỹ với Marshalls, Micronesia và Palau. Theo họ, chính phủ Tổng thống Joe Biden đã không ưu tiên những cuộc đàm phán này.
“Không có cuộc họp chính thức nào kể từ khi chính quyền Biden lên nắm quyền, ngay cả khi trọng tâm quốc tế của chúng ta là tiếp tục chuyển sang Ấn Độ – Thái Bình Dương”, bức thư viết.
Lo ngại cho vị thế của Mỹ
Các nghị sĩ cảnh báo chính sự chậm trễ này đang đặt Mỹ vào thế yếu hơn và “Trung Quốc đã quá sẵn sàng để tham gia và cung cấp đầu tư cơ sở hạ tầng và chống biến đổi khí hậu mà các đối tác lâu năm của chúng ta đang tìm kiếm”.
Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng đã đánh tiếng về tham vọng của nước này khi tuyên bố Mỹ có nhiệm vụ khắc phục những thiệt hại về môi trường mà họ gây ra từ các vụ thử hạt nhân. Bắc Kinh cũng nhấn mạnh “sẵn sàng bắt tay với chính quyền Marshall và các quốc đảo Thái Bình Dương khác trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau”.
Thị trưởng James Matayoshi của đảo san hô Rongelap trên quần đảo Marshall, cho biết ông và hàng trăm người khác vẫn di dời khỏi đảo kể từ sau các vụ thử hạt nhân và muốn thấy hòn đảo được hồi sinh. Ông cho biết, các giới chức đã thảo luận với các nhà đầu tư tiềm năng từ châu Á, sau khi đề xuất trước đó của một doanh nhân người Marshall gốc Trung Quốc thất bại.
“Đó sẽ chỉ là một giao dịch kinh doanh. Chúng tôi không ủng hộ chiến tranh hay bất kỳ ảnh hưởng nào của siêu cường tại đây”, ông Matayoshi nói. “Nhưng chúng tôi muốn có thể sống ở sân sau của chúng tôi và tận hưởng cuộc sống ở đây”.
Giống nhiều người dân khác trên quần đảo Marshall, Matayoshi tin rằng, thỏa thuận 150 triệu USD của Mỹ vào những năm 1980 không đủ khả năng giải quyết những “di sản hạt nhân” mà Washington để lại.
Nhưng quan điểm của Mỹ đã không thay đổi trong hơn 20 năm qua, và đó cũng là thời điểm cuối cùng bản thỏa thuận được đưa ra để đàm phán lại. Washington cũng khẳng định, việc bồi thường hạt nhân được giải quyết theo “thỏa thuận đầy đủ và cuối cùng” và không thể đưa ra đàm phán lại.
Thượng nghị sĩ David Paul của Marshallese, người trong ủy ban đàm phán của quần đảo và cũng đại diện cho đảo san hô Kwajalein, nơi có căn cứ quân sự lớn của Mỹ, cho biết tỷ lệ ung thư ở đây gia tăng và cần ưu tiên tính toán việc di dời dân. “Mọi người đều biết các cuộc đàm phán vào thời điểm đó là không công bằng. Khi bạn xem xét tổng chi phí thiệt hại về tài sản và các vấn đề sức khỏe đang hiện hữu cho đến nay, đó là một sự xúc phạm”, ông nói.
Theo nhiều ước tính, chi phí thiệt hại vào khoảng 3 tỷ USD, bao gồm cả việc sửa chữa một cơ sở chất thải hạt nhân khổng lồ được gọi là Cactus Dome mà các nhà môi trường cho rằng đang rò rỉ chất thải độc hại ra đại dương.
Thượng nghị sĩ Paul nói rằng, cách tiếp cận của Mỹ cần phải thay đổi, nếu không muốn để Marshall ngả về phía Trung Quốc.
Nhiều quốc gia ủng hộ mục tiêu khí thải nghiêm ngặt hơn với vận tải biển
Ngày 1/11, hơn 10 quốc gia, trong đó có Đan Mạch, Mỹ cùng ký tuyên bố ủng hộ mục tiêu đưa mức phát thải ròng về 0 vào năm 2050 đối với ngành hàng hải trên toàn cầu.
Thủ tướng Đan Mạch Mette Frederiksen. Ảnh: AFP/ TTXVN
Dự kiến, mục tiêu này sẽ được đưa ra thảo luận tại các cuộc đàm phán của Tổ chức hàng hải quốc tế (IMO) trong thời gian tới.
Sáng kiến này do Đan Mạch khởi xướng và đưa ra bên lề Hội nghị lần thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc (LHQ) về biến đổi khí hậu (COP26) tại Glasgow (Anh) nhằm kêu gọi sự ủng hộ đối với mục tiêu của IMO, trong đó xem xét đưa ra các biện pháp mới nhằm cắt giảm khí thải vào hạn chót năm 2023.
Phát biểu với báo giới tại COP26, Thủ tướng Đan Mạch Mette Frederiksen đã hối thúc IMO hành động nhằm đưa ra mục tiêu tham vọng đạt mức trung hòa carbon vào năm 2050. Ông cho rằng việc trung hòa carbon ngành vận tải biển góp phần đặc biệt quan trọng đối với mục tiêu khí hậu toàn cầu.
Ngoài Đan Mạch và Mỹ, 12 nước gồm Bỉ, Anh, Phần Lan, Pháp, Đức, Honduras, Hungary, Iceland, quần đảo Marshall, Na Uy, Panama và Thụy Điển cũng đã ký tuyên bố chung về lĩnh vực hàng hải. Theo đó, các nước cam kết phối hợp tại IMO nhằm thông qua mục tiêu cho năm 2030 và 2040, đưa ngành hàng hải vào lộ trình khử carbon hoàn toàn vào năm 2050, cũng như thông qua các biện pháp để đạt được những mục tiêu này.
Các quy định về vận tải của IMO cần được 175 nước thành viên đồng thuận thông qua. Do đó, việc đạt được mục tiêu khó khăn hơn trong cắt giảm khí thải trên sẽ cần sự chấp thuận của đa số thành viên, gây ra thách thức về chính trị. Trên thực tế, một số nước có ngành vận tải biển lớn đã không tham gia ký tuyên bố.
Người phát ngôn của IMO cho biết tổ chức này sẽ tạo diễn đàn để các nước thành viên có thể bắt đầu thảo luận các đề xuất về biện pháp khí hậu rộng hơn mà các nước sẽ thông qua vào năm 2023.
Năm 2018, IMO đã thông qua mục tiêu đến năm 2050, giảm 50% lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính trong ngành vận tải biển toàn cầu so với mức của năm 2008. Tuy nhiên, mức này vẫn kém xa so với mục tiêu đưa mức phát thải ròng về 0 mà các nhà khoa học cho rằng cần phải đạt được vào năm 2050 nhằm tránh những thảm họa do tác động từ biến đổi khí hậu.
Với khoảng 90% lượng hàng hóa thương mại trên thế giới được vận chuyển bằng đường biển, lượng phát thải khí CO2 trong ngành này chiếm gần 3% tổng mức phát thải toàn cầu. Theo giới chuyên gia, việc khử carbon trong ngành vận tải biển đòi hỏi các khoản đầu tư lớn nhằm tăng cường sản xuất nhiên liệu xanh và đưa vào vận hành những con tàu sử dụng "năng lượng sạch" trong thập niên này.
Theo kế hoạch, Maersk - công ty vận tải biển của Đan Mạch, có quy mô lớn nhất thế giới, sẽ đưa vào sử dụng tàu "trung hòa carbon" đầu tiên trong năm 2023, sử dụng methanol xanh, sản xuất từ các nguồn tái tạo.
Một số nước cũng đang thúc đẩy các chính sách nghiêm ngặt hơn. Liên minh châu Âu (EU) đang xem xét đề xuất đưa hoạt động vận tải biển vào thị trường carbon của EU, buộc các chủ tàu phải trả chi phí cho việc gây ô nhiễm môi trường.
Hiện Anh cũng đang nỗ lực tập hợp các nước nhằm đưa ra tuyên bố tương tự trong lĩnh vực hàng không tại COP26, thúc đẩy cơ quan hàng không của LHQ đặt ra mục tiêu khí thải nghiêm ngặt hơn.
Marshall ra mắt tai nghe true-wireless đầu tiên giá 5 triệu đồng Chất tiếng "mộc" từ loa Marshall nay được chuyển thể thành tai nghe true-wireless với hiệu suất ổn định cùng tính năng hiện đại mới. Marshall Mode II là tên của mẫu tai nghe in-ear true-wireless đầu tiên của thương hiệu loa cùng tên. Tai nghe được làm theo kiểu dáng thể thao và mang tính biểu tượng của công ty thiết bị...